Tải về file Word: Hiến pháp Dòng Ba Cát Minh
Prot. N. C. 228-1/2003
SẮC LỆNH
Được sự phê chuẩn của Hội Đồng Giám Định trong kỳ họp thứ 11 vào ngày 09 tháng 06 năm 2003, bề trên Tổng quyền Dòng Cát Minh Tê-rê-xa đã đệ trình bản Hiến pháp của Dòng Cát Minh Tại Thế cho Toà Thánh để xin được phê chuẩn.
Thánh bộ về Đời sống Thánh hiến và các Hiệp hội Đời sống Tông đồ, sau khi đã xem xét một cách kỹ lưỡng mọi điều, bởi sắc lệnh này, phê chuẩn bản hiến pháp nói trên theo bản mẫu được đệ trình bằng ngôn ngữ Tây Ban Nha và được lưu trữ trong văn khố của Thánh bộ.
Bản Hiến Pháp mới này của Dòng Cát Minh Tê-rê-xa Tại Thế sẽ là một phương tiện hiệu quả thực sự nhờ đó các thành viên có thể làm cho sự thánh hiến thánh tẩy được trở nên dồi dào sinh lực hơn nữa trong mọi tình huống cụ thể của đời sống gia đình, xã hội, dân sự, và giáo hội.
Mọi điều trái ngược sẽ không có hiệu lực.
Vatican, 16 tháng 06 năm 2003.
LỜI MỞ ĐẦU
Trong đức ái, tất cả mọi người đều được mời gọi chia sẻ sự thánh thiện độc nhất của Thiên Chúa: “Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con ở trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
Theo Chúa Kitô là con đường đẫn đến hoàn thiện, được mở ra cho mọi người nhờ bí tích thánh tẩy. Qua bí tích thánh tẩy, chúng ta dự phần vào ba sứ mạng của Chúa Giê-su: vương đế, tư tế và ngôn sứ. Sứ mạng thứ nhất là sự hiến thân biến đổi thế giới theo kế hoạch của Thiên Chúa. Bằng sứ mạng tư tế, người được thánh tẩy dâng hiến bản thân và toàn thể tạo vật cho Chúa Cha cùng với Chúa Ki-tô, và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Và như một ngôn sứ, người được thánh tẩy loan báo chương trình của Thiên Chúa cho nhân loại và lên án tất cả những điều trái với chương trình đó.[1]
Đại gia đình Cát Minh Tê-rê-xa hiện diện trên thế giới dưới nhiều hình thức. Hạt nhân của gia đình này là Dòng Cát Minh Tê-rê-xa (nam tu sĩ, nữ đan sĩ, giáo dân). Đó là một Dòng tu với cùng một đoàn sủng. Dòng được nuôi dưỡng bằng truyền thống Cát Minh lâu đời, được biểu lộ trong Tu luật thánh An-bec-tô, học thuyết của các Tiến sĩ Cát Minh của Giáo hội và các thánh khác của Dòng.
Hiến pháp hiện nay của OCDS là luật nền tảng cho các thành viên, hiện diện trong nhiều vùng trên thế giới. Vì lý do đó, nét đặc trưng của hiến pháp là cấu trúc đơn giản và quân bình về các luật lệ liên quan đến cách sống. Bằng cách này, trong sự hiệp nhất cơ bản được thiết lập bởi pháp chế, sự mở ra cho tính đa dạng trong sự biểu hiện theo yêu cầu của các bối cảnh khác nhau về xã hội, văn hóa và giáo hội được duy trì. Để đạt được điều này, những qui chế riêng biệt có thể được thảo ra để bổ sung và thích nghi những luật tổng quát ở những nơi được Hiến Pháp cho phép.
BẢN SẮC, GIÁ TRỊ VÀ SỰ HIẾN THÂN CỦA CHÚNG TA
- Người Cát Minh Tại Thế, cùng với các nam nữ tu sĩ, là con cái của Dòng Đức Bà Núi Cát Minh và thánh Tê-rê-xa Chúa Giê-su. Vì thế, họ chia sẻ cùng một đoàn sủng với các tu sĩ, mỗi người tùy theo trạng thái đặc thù của cuộc sống. Đây là một gia đình với cùng những di sản thiêng liêng, cùng được mời gọi sống thánh thiện (x. Ep 1:4; 1P 1:15) và có cùng sứ mạng tông đồ. Những thành viên tại thế góp phần vào Dòng với những lợi ích phù hợp với đời sống tại thế của họ.[2]
- Mối quan hệ hội viên của Dòng bắt nguồn từ mối quan hệ được thiết lập giữa giáo dân và các thành viên của Dòng tu được sinh ra vào thời Trung cổ. Dần dần các mối quan hệ này có đặc tính công khai, trở thành một bộ phận của Dòng tu và thông phần vào đoàn sủng và linh đạo của Dòng tu đó. Dưới ánh sáng của nền thần học mới về giáo dân của Giáo Hội, người tại thế sống mối quan hệ đó với bản sắc tại thế rõ ràng.
- Những thành viên của Dòng Cát Minh Tê-rê-xa Tại Thế là những thành viên trung thành của Giáo Hội,[3] được mời gọi sống “lệ thuộc Chúa Giê-su Ki-tô”[4] qua “tình bạn hữu với Đấng chúng ta biết là yêu thương chúng ta”[5] và để phục vụ Giáo Hội. Dưới sự che chở của Đức Bà Núi Cát Minh, trong truyền thống Thánh Kinh của Tiên tri Elia và được gợi hứng bởi lời dạy của thánh Tê-rê-xa Chúa Giê-su và thánh Gio-an Thánh Giá, họ ra sức đào sâu sự hiến thân của Ki-tô hữu đã được lãnh nhận trong bí tích Rửa tội.
- Đức Trinh Nữ Ma-ri-a hiện diện một cách đặc biệt, trên hết như một mẫu gương của sự trung tín lắng nghe Lời Chúa, phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Đức Ma-ri-a là người giữ gìn trong tâm hồn mẹ đời sống và hành động của Con Mẹ và suy gẫm trong lòng.[6] Mẹ nêu lên cho chúng ta một gương mẫu của chiêm niệm. Tại Ca-na, Mẹ khuyên chúng ta thực hiện điều Chúa dạy.[7] Đức Ma-ri-a là mẫu gương của sứ vụ tông đồ. Ở một dịp khác, Mẹ đợi chờ, kiên trì cầu nguyện với các tông đồ,[8] để Chúa Thánh Thần hiện xuống, cho chúng ta chứng tá của sự cầu bầu. Ngài là Mẹ của Dòng. Dòng Cát Minh Tại Thế vui nhận sự bảo trợ đặc biệt của Mẹ và nuôi dưỡng lòng chân thành sùng kính Đức Ma-ri-a.
- Elia tượng trưng cho truyền thống ngôn sứ của Cát Minh và là nguồn cảm hứng sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa, tìm Chúa trong cô tịch và thinh lặng với nhiệt tâm cho vinh danh Thiên Chúa. Người Cát Minh Tại Thế sống chiều kích ngôn sứ của đời sống Ki-tô hữu và linh đạo Cát Minh bằng cách cổ võ luật bác ái và chân lý của Chúa trong thế giới, trên hết mọi sự bằng cách làm cho chính mình trở thành tiếng nói biểu lộ đức bác ái và chân lý này, thay cho những người không thể tự nói.[9]
- Luật của thánh An-bec-tô là cách biểu lộ nguyên thủy của linh đạo Cát Minh. Nó được viết ra cho các giáo dân qui tụ trên Núi Cát Minh để sống một cuộc sống tận hiến cho việc suy gẫm Lời Chúa, dưới sự che chở của Đức Ma-ri-a. Những nguyên tắc dưới đây của Luật ấy hướng dẫn cho đời sống Cát Minh:
- Sống trung thành với Chúa Giê-su Ki-tô;
- Chuyên cần suy niệm luật Chúa;
- Dành thời gian đọc sách thiêng liêng;
- Tham gia Phụng Vụ của Giáo hội, cả Thánh Thể và Giờ Kinh Phụng Vụ;
- Quan tâm đến nhu cầu và lợi ích của người khác trong cộng đoàn;
- Tự trang bị cho mình bằng việc thực hành các nhân đức đang khi chúng ta sống đời sống tin, cậy và mến mạnh mẽ;
- Tìm kiếm thinh lặng nội tâm và sự cô tịch trong đời sống cầu nguyện;
- Dùng sự thận trọng trong mọi việc chúng ta làm.
- Nguồn gốc của Dòng Cát Minh Tê-rê-xa được tìm thấy ở thánh Tê-rê-xa Chúa Giê-su. Ngài sống trong niềm tin sâu thẳm vào lòng thương xót của Chúa,[10] nhờ đó ngài được thêm sức để kiên trì[11] trong cầu nguyện, sự khiêm tốn, tình yêu đối với anh chị em, và tình yêu đối với Giáo Hội, dẫn ngài đến ơn hôn phối tâm linh. Để sống đời sống thiêng liêng, hằng ngày chúng ta phải được hướng dẫn bởi sự từ bỏ theo Phúc Âm, sẵn sàng phục vụ và kiên trì trong thực hành các nhân đức.[12] Giáo huấn của ngài về cầu nguyện và đời sống thiêng liêng là những điều cốt yếu cho việc đào tạo và đời sống của Dòng Cát Minh Tại Thế.
- Thánh Gio-an Thánh Giá là người đồng hành với Thánh Tê-rê-xa trong việc đào tạo của Dòng Cát Minh Tê-rê-xa. Ngài gợi hứng cho người Cát Minh Tại Thế tỉnh thức trong thực hành đức tin, đức cậy và đức mến. Ngài hướng dẫn người Cát Minh Tại Thế đi qua đêm tối để nên một với Chúa. Trong sự nên một này với Thiên Chúa, người Cát Minh Tại Thế tìm thấy sự tự do đích thực của con cái Thiên Chúa.[13]
- Khi xét đến nguồn gốc của Dòng Cát Minh và đoàn sủng Tê-rê-xa, những yếu tố cơ bản của ơn gọi Cát Minh Tại Thế Tê-rê-xa có thể được tóm tắt như sau:
- Sống trung thành với Chúa Giê-su Ki-tô, được nâng đỡ bởi sự bắt chước và bảo trợ của Rất Thánh Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, mà đối với Dòng Cát Minh, cách sống của mẹ là một mẫu gương của việc nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô;
- Tìm kiếm “sự kết hợp huyền nhiệm với Chúa” bằng chiêm niệm và hoạt động tông đồ, không thể tách rời nhau, để phục vụ Giáo Hội;
- Đặt tầm quan trọng đặc biệt cho cầu nguyện, được nuôi dưỡng nhờ việc lắng nghe Lời Chúa và nhờ phụng vụ, để quan hệ với Chúa như một người bạn, không chỉ trong cầu nguyện nhưng trong đời sống hằng ngày. Dấn thân vào đời sống cầu nguyện đó đòi hỏi được nuôi dưỡng bằng đức tin, đức cậy và trên hết mọi sự, bằng đức ái để sống trong sự hiện diện và mầu nhiệm của Thiên Chúa hằng sống;[14]
- Làm cho việc cầu nguyện và cuộc sống tràn ngập nhiệt tâm tông đồ trong bầu khí cộng đoàn nhân bản và ki-tô hữu;
- Sống từ bỏ theo Phúc Âm theo viễn cảnh thần học;
- Nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dấn thân rao giảng Tin Mừng: trong sứ vụ linh đạo như là một sự cộng tác đặc biệt của Dòng Cát Minh Tại Thế, trung tín với bản sắc Cát Minh Tê-rê-xa.
BƯỚC THEO CHÚA GIÊ-SU TRONG DÒNG CÁT MINH TÊ-RÊ-XA TẠI THẾ
- Chúa Ki-tô là trung tâm của đời sống chúng ta và của kinh nghiệm ki-tô hữu. Các thành viên của Dòng Tại Thế được mời gọi sống những đòi hỏi của việc bước theo Chúa Giê-su trong sự kết hiệp với Ngài, bằng cách chấp nhận những giáo huấn của Ngài và tận hiến cho Ngài. Theo Chúa Giê-su là thông phần vào sứ mạng cứu độ của Ngài, loan báo Tin Mừng và xây dựng Nước Chúa (Mt 4:18-19). Có nhiều cách theo Chúa Giê-su: mọi ki-tô hữu đều phải theo Ngài, phải áp dụng luật của Ngài trong đời sống của họ và sẵn sàng chu toàn ba đòi hỏi cơ bản: đặt những ràng buộc gia đình dưới quyền lợi của Nước Chúa và chính Chúa Giê-su (Mt 10:37-39; Lc 14:25-26); sống trong sự từ bỏ giàu sang để chứng tỏ rằng Nước Chúa đến không tùy thuộc phương tiện nhân loại nhưng tùy vào sức mạnh của Chúa và sự tự nguyện của con người trước mặt Chúa (Lc 14:33); vác thánh giá bằng cách chấp nhận ý Chúa được mặc khải trong sứ mạng mà Ngài giao phó cho mỗi người (Lc 14:33;9:23).
- Là các thành viên của Dòng Tại Thế, việc theo Chúa Giê-su được biểu lộ bằng lời tuyên hứa phấn đấu đạt đến sự hoàn thiện phúc âm trong tinh thần của các lời khuyên phúc âm về khiết tịnh, khó nghèo và vâng lời và qua các mối phúc thật. Bằng lời tuyên hứa, sự cam kết rửa tội của thành viên được củng cố cho việc phục vụ kế hoạch của Chúa trong thế giới. Lời tuyên hứa đó là một bằng chứng theo đuổi sự thánh thiện cá nhân, kèm theo sự hiến thân phục vụ Giáo Hội trong sự trung thành với đoàn sủng Cát Minh Tê-rê-xa. Lời hứa được tuyên bố trước mặt các thành viên của cộng đoàn, đại diện cho toàn Giáo Hội và với sự hiện diện của đấng được Bề trên Dòng ủy quyền.
- Bằng lời tuyên hứa với cộng đoàn trước sự hiện diện của Bề trên Dòng hoặc người được ủy quyền, người đó hoàn toàn trở thành một thành viên của Dòng Tại Thế. Qua sự hiến thân đó, các thành viên phấn đấu để đạt được sự đào tạo cần thiết để biết những lý do, nội dung và mục tiêu của kiểu sống theo Tin Mừng họ đã lãnh nhận. Lời tuyên hứa làm cho sự hiến thân rửa tội được vươn lên cao và thêm phong phú nơi những người Cát Minh Tại Thế. Điều đó bao gồm những người được gọi sống đời hôn nhân, với tư cách là vợ chồng và cha mẹ. Lời tuyên hứa này được làm mới lại một lần hằng năm trong mùa Phục Sinh.
Sự hiến thân vào lời hứa sống tinh thần của lời khuyên khiết tịnh trong Phúc Âm
- Lời hứa khiết tịnh củng cố lại sự hiến thân yêu Chúa trên hết mọi sự, và yêu anh chị em bằng tình yêu mà Chúa đã yêu họ.[15] Trong lời hứa này, người Cát Minh Tại Thế tìm sự tự do để yêu Chúa và tha nhân một cách vô vụ lợi[16] làm chứng cho sự sống thân mật với Chúa được hứa qua mối phúc “phúc cho những người có lòng trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5:8). Lời hứa khiết tịnh là một sự hiến thân cho tình yêu Ki-tô giáo trong các chiều kích cá nhân và xã hội để tạo một cộng đoàn đích thực trong thế giới. Qua lời hứa này người Cát Minh Tại Thế cũng biểu lộ ước muốn ý thức tôn trọng mỗi người như luật Chúa và bậc sống của mỗi người đòi hỏi, như một người độc thân hoặc có gia đình hoặc góa bụa. Lời hứa này không ngăn cản sự thay đổi bậc sống.
Sự hiến thân vào lời hứa sống tinh thần của lời khuyên nghèo khó trong Phúc Âm
- Qua lời hứa nghèo khó, người Cát Minh Tại Thế biểu lộ ước muốn sống phù hợp với Phúc Âm và giá trị của Phúc Âm. Trong sự nghèo khó Phúc Âm, có sự giàu sang của quảng đại, từ bỏ, và sự tự do nội tâm và sự lệ thuộc vào Đấng “mặc dù giàu có, để cứu rỗi chúng ta, đã trở nên nghèo nàn” (2 Cor 8:9), và “đã trút bỏ bản thân” (Ph 2:7), để phục vụ anh chị em Ngài. Lời hứa nghèo khó tìm kiếm việc sử dụng của cải đời này và những tài năng cá nhân theo tinh thần Tin Mừng, cũng như việc thực thi các trách nhiệm cá nhân trong xã hội, gia đình, và công việc, tin tưởng đặt mọi sự trong tay Chúa. Nó cũng kéo theo sự hiến thân cho sự nghiệp công bằng để chính thế giới đáp ứng kế hoạch của Thiên Chúa. Kết hợp với những điều đó, sự nghèo khó Phúc Âm nhìn nhận những giới hạn cá nhân và dâng hiến chúng cho Chúa trong niềm tin tưởng vào lòng tốt lành và sự chung thủy của Ngài.
Sự hiến thân vào lời hứa sống tinh thần của lời khuyên vâng lời trong Phúc Âm
- Noi gương Chúa Ki-tô, Đấng đã chấp nhận thánh ý của Cha và đã “vâng lời cho đến chết, chết trên thập giá” (Ph 2:8), lời hứa vâng lời là một bằng chứng sống cởi mở cho thánh ý Chúa, “trong Ngài chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17:28). Lời hứa vâng lời là một bài tập đức tin dẫn đến việc tìm kiếm thánh ý Chúa trong các biến cố và thách đố của xã hội và trong đời sống cá nhân của chúng ta. Vì lý do đó, người Cát Minh Tại Thế tự do cộng tác với những người có trách nhiệm hướng dẫn cộng đoàn và Dòng trong việc phân định và chấp nhận đường lối Chúa: Ban Cố Vấn Cộng đoàn, Bề Trên Giám Tỉnh và Bề Trên Tổng Quyền.
Sự hiến thân vào lời hứa sống tinh thần các mối phúc
- Các mối phúc là chương trình hành động cho cuộc sống và cách thức đi vào mối quan hệ với thế giới, người thân cận và đồng nghiệp, gia đình và bạn bè. Là thành viên của Giáo Hội và của Dòng, nhờ tuyên hứa sống các mối phúc trong đời sống hằng ngày, người Cát Minh Tại Thế tìm cách làm chứng cho Tin Mừng và qua chứng từ đó mời gọi thế giới bước theo Chúa Ki-tô, Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14:6).
CHỨNG TÁ VỀ KINH NGHIỆM THIÊN CHÚA
- Ơn gọi Cát Minh Tê-rê-xa là sự hiến thân “sống đời sống trung thành với Chúa Giê-su Ki-tô,” “suy niệm luật Chúa ngày đêm và ngày đêm tỉnh thức trong cầu nguyện.”[17] Trung thành với nguyên tắc đó của Tu Luật, thánh Tê-rê-xa đã đặt cầu nguyện như là nền tảng và việc thực tập căn bản của gia đình tu trì của ngài. Vì lý do đó, người Cát Minh Tại Thế được mời gọi phấn đấu để làm cho cầu nguyện thấm nhập trọn vẹn toàn bộ sự hiện hữu của mình, để bước đi trong sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống (x. 1Vua 18:14), nhờ liên lỉ thực hành đức tin, đức cậy và đức mến, để rồi có thể nói cả cuộc đời họ chính là lời cầu nguyện, chính là việc tìm kiếm sự nên một với Thiên Chúa. Mục đích sẽ là để đạt đến sự toàn nhập giữa kinh nghiệm về Thiên Chúa và kinh nghiệm về cuộc sống: nghĩa là vừa chiêm niệm trong cầu nguyện và vừa chu toàn sứ mạng của mình.
- Cầu nguyện là cuộc trao đổi thân tình với Chúa. Nó phải được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa để cuộc hội thoại đó trở thành như là “chúng ta nói chuyện với Ngài khi ta cầu nguyện; chúng ta nghe Ngài khi ta đọc sách thánh.”[18] Lời Chúa sẽ nuôi dưỡng kinh nghiệm chiêm niệm của người Cát Minh Tại Thế và sứ mạng của họ trong thế giới. Ngoài việc chiêm niệm cá nhân, việc lắng nghe Lời Chúa còn phải khuyến khích việc chiêm niệm để đưa đến việc chia sẻ kinh nghiệm về Thiên Chúa trong cộng đoàn Dòng Tại Thế. Nhờ đó, cộng đoàn cùng nhau tìm cách phân định các đường lối của Chúa, duy trì một năng lực hoán cải thường xuyên, và sống với niềm hy vọng được đổi mới. Người Cát Minh Tại Thế sẽ có khả năng nhìn xuyên các biến cố và khám phá Chúa trong mọi sự.
- Việc học hỏi, đọc Kinh Thánh và các bút tích của các thánh Dòng chúng ta, đặc biệt là của các Tiến sĩ Hội thánh: thánh Tê-rê-xa, thánh Gio-an Thánh Giá và thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su sẽ chiếm vị thế ưu tiên trong việc nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện của người Cát Minh Tại Thế. Các tài liệu của Giáo hội cũng là thức ăn và nguồn cảm hứng cho sự hiến thân theo Chúa Giê-su.
- Người Cát Minh Tại Thế cần phải đảm bảo có những thời gian đặc biệt được dành riêng cho cầu nguyện, là thời gian của việc ý thức nhiều hơn về sự hiện diện của Thiên Chúa và một không gian nội tâm cho sự gặp gỡ riêng tư và thân mật với Ngài. Điều đó sẽ dẫn đến cầu nguyện như một thái độ sống, sẽ “luôn luôn và ở mọi nơi nhận biết Chúa… tìm ý Chúa trong mỗi biến cố, thấy Chúa trong mọi người, cho dù là người thân hay người lạ, và phán đoán đúng về ý nghĩa và giá trị đích thật của những sự vật chóng qua ngay chính nơi các sự vật ấy và trong mối quan hệ của chúng với cùng đích loài người”.[19] Nhờ đó họ sẽ đạt đến sự kết hiệp giữa chiêm niệm và hoạt động trong lịch sử, toàn nhập đức tin và đời sống, cầu nguyện và hành động, chiêm niệm và sự cam kết Ki-tô hữu.
- Người Cát Minh Tại Thế sẽ tự hiến thân hằng ngày dành thời gian trong việc thực hành tâm nguyện. Đó là thời gian ở với Chúa và củng cố mối tương quan với Ngài để họ có thể là chứng tá đích thực về sự hiện diện của Ngài trong thế giới.
- Cách cầu nguyện của Ki-tô hữu đòi hỏi một đời sống từ bỏ theo Phúc Âm (Lc 9:23) để hoàn thành ơn gọi cá nhân và sứ mệnh của mình, vì “cầu nguyện và sống thoải mái không tương đồng.”[20] Dưới cái nhìn của đức tin, cậy và mến, người Cát Minh Tại Thế chấp nhận công việc và đau khổ hằng ngày, những lo toan gia đình, sự bất ổn và giới hạn của đời sống con người, bệnh tật, thiếu hiểu biết và tất cả mọi sự cấu thành sự hiện hữu trên trái đất. Họ sẽ phấn đấu để biến tất cả những điều này thành chất liệu cho việc đàm đạo với Chúa, để lớn lên trong thái độ ngợi khen và cảm tạ Chúa. Để sống cách chân thật, đơn sơ, tự do, khiêm tốn và hoàn toàn phó thác vào Chúa, người Cát Minh Tại Thế sẽ tuân thủ các thực hành của việc từ bỏ theo Phúc Âm được Giáo Hội khuyến cáo, đặc biệt quan trọng là những ngày và thời kỳ trong luật phụng vụ có tính chất sám hối.
- Đời sống cầu nguyện riêng tư của người Cát Minh Tại Thế, được hiểu như là tình bạn với Chúa, cũng được nuôi dưỡng và biểu lộ trong phụng vụ, một nguồn suối vô tận cho đời sống thiêng liêng. Cầu nguyện phụng vụ làm cho cầu nguyện cá nhân phong phú thêm và ngược lại, cầu nguyện cá nhân mang đến một cách biểu lộ sống động khi tham gia phụng vụ. Trong Dòng Tại Thế, một vị trí đặc biệt được dành cho phụng vụ, được hiểu như Lời Chúa được cử hành trong niềm hy vọng tích cực, sau khi đã được lãnh nhận bởi đức tin và sự hiến thân sống trong đức mến hiệu quả. Các Bí tích, đặc biệt Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải, cần được sống như những dấu chỉ và công cụ của hành động tự do của Thiên Chúa và như một sự gặp gỡ Chúa Ki-tô Phục Sinh, hiện diện trong cộng đoàn Giáo hội. Đó là những cơ cấu mang lại ân sủng trái ngược với các cơ cấu gây nên tội lỗi trong xã hội. Người Cát Minh Tại Thế phấn đấu khám phá trong cầu nguyện phụng vụ sự hiện diện của Chúa Ki-tô và Chúa Thánh Thần, đang sống và đòi hỏi chúng ta một điều gì trong đời sống hằng ngày. Trong năm phụng vụ, họ sẽ trải nghiệm những mầu nhiệm cứu chuộc cảm hứng sự hợp tác vào kế hoạch của Thiên Chúa. Đối với phần mình, phụng vụ các giờ kinh sẽ đem người Cát Minh Tại Thế vào trong sự hiệp thông với lời cầu nguyện của Chúa Giê-su và Giáo Hội.
- Giá trị của đời sống bí tích và phụng vụ trong Dòng tại Thế đưa các thành viên thông phần vào việc cử hành Bí Tích Thánh Thể càng nhiều càng tốt. Họ sẽ cố gắng đọc Kinh Sáng và Chiều của các giờ kinh phụng vụ trong sự hiệp thông với Giáo hội trên toàn thế giới. Họ cũng còn đọc Kinh Tối vào những lúc có thể. Sự tham gia vào bí tích Hòa Giải và các bí tích khác của Giáo Hội sẽ hỗ trợ tiến trình hoán cải của họ.
PHỤC VỤ KẾ HOẠCH CỦA THIÊN CHÚA
- “Chính vì họ là thành viên của Giáo Hội, các tín hữu giáo dân có ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng: họ được chuẩn bị cho việc này bằng các bí tích khai tâm Ki-tô hữu và bằng các quà tặng của Chúa Thánh Thần”.[21] Linh đạo Cát Minh sẽ đánh thức trong người Cát Minh Tại Thế sự khao khát hiến thân làm tông đồ lớn hơn, bằng cách nhận thức về mọi sự liên quan đến ơn gọi Cát Minh. Ý thức về nhu cầu thế giới cần những chứng tá của sự hiện diện Thiên Chúa,[22] họ sẽ đáp lại lời mời của Giáo Hội gởi đến mọi Hiệp hội của những người trung thành theo Chúa Ki-tô, hiến thân vào xã hội nhân loại qua việc tích cực tham gia vào mục tiêu tông đồ của sứ mạng Giáo Hội, trong khuôn khổ của đoàn sủng riêng của họ. Như là hoa quả của sự tham gia loan báo Tin Mừng, người Cát Minh Tại Thế sẽ chia sẻ một cảm nghiệm mới mẻ về cầu nguyện, chiêm niệm và đời sống phụng vụ và bí tích.
- Ơn gọi trong Dòng Tại Thế thật sự có tính giáo hội. Nếu cầu nguyện và hoạt động tông đồ thực sự chân thật, chúng không thể tách rời nhau. Thánh Tê-rê-xa nhận xét rằng mục tiêu của cầu nguyện là “là để làm phát sinh việc lành”.[23] Điều đó nhắc nhớ Dòng Cát Minh Tại Thế rằng ân sủng được nhận lãnh phải có tác dụng trên những người lãnh nhận ân sủng.[24] Với tính cách cá nhân hoặc như một cộng đoàn và trên hết mọi sự như các thành viên của Giáo Hội, hoạt động tông đồ là hoa quả của cầu nguyện. Ở đâu nếu có thể, trong sự cộng tác với các bề trên tu sĩ và với sự cho phép cần thiết của những người có trách nhiệm, các cộng đoàn của Dòng Tại Thế sẽ tham gia vào việc tông đồ của Dòng.
- Người Cát Minh Tại Thế được gọi sống và làm chứng cho đoàn sủng Cát Minh Tê-rê-xa trong Giáo Hội địa phương, chính là thành phần Dân Chúa trong đó Giáo Hội của Chúa Ki-tô thực sự hiện diện và hoạt động.[25] Mọi người sẽ cố gắng sống để làm chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa và đảm nhận trách nhiệm về những giúp đỡ cụ thể Giáo Hội cần đến trong những công việc mục vụ trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình dưới sự hướng dẫn của Giám mục. Vì lý do đó, mỗi người sẽ làm tông đồ bằng cách cộng tác với những người khác trong cộng đoàn hoặc bằng cá nhân mình.
- Với sự hiến thân làm tông đồ, họ sẽ mang sự giàu sang của linh đạo của họ vào những hình thức đa dạng trong việc loan báo Tin Mừng: sứ mạng, giáo xứ, nhà cầu nguyện, Viện Linh Đạo, nhóm cầu nguyện, mục vụ về linh đạo. Với sự đóng góp đặc biệt với tư cách là người Cát Minh Tại Thế, họ có thể cống hiến nguồn cảm hứng tươi mát của Dòng Cát Minh Tê-rê-xa cho “một sinh lực thiêng liêng và tông đồ mới”,[26] với sự trung thành sáng tạo về sứ mạng của mình trong Giáo Hội. Những hoạt động tông đồ khác nhau của Dòng Tại Thế sẽ được chuyên biệt hóa và lượng giá trong các Quy chế riêng biệt của những vùng địa lý khác nhau.[27]
VỚI ĐỨC MA-RI-A, MẸ CHÚA GIÊ-SU
- Trong động lực nội tâm bước theo Chúa Giê-su, Dòng Cát Minh chiêm ngắm Đức Ma-ri-a như là người Mẹ và người Chị, như là “gương mẫu hoàn hảo của người môn đệ của Chúa”[28] và như thế Mẹ là gương mẫu của đời sống của các thành viên trong Dòng. Đức Trinh Nữ của kinh Magnificat công bố sự cắt đứt với trật tự cũ và loan báo sự khởi đầu của một trật tự mới trong đó Chúa hạ bệ những ai quyền thế khỏi ngai vàng và đề cao những người nghèo. Đức Ma-ri-a tự đặt mình về phía người nghèo và công bố cách Chúa hành động trong lịch sử. Đối với người Cát Minh Tại Thế, Đức Ma-ri-a là mẫu gương của sự hiến thân hoàn toàn cho Nước Chúa. Mẹ dạy chúng ta lắng nghe Lời Chúa trong Kinh Thánh và trong đời sống, tin vào đó trong mọi tình huống để sống theo đòi hỏi của Lời Chúa. Mẹ đã thực hiện tất cả những điều này tuy không hiểu nhiều điều; Mẹ đã suy đi nghĩ lại mọi sự trong lòng (Lc 2:19, 50-51) cho đến khi được ánh sáng chiếu soi nhờ cầu nguyện chiêm niệm.
- Đức Ma-ri-a cũng là lý tưởng và nguồn cảm hứng cho người Cát Minh Tại Thế. Mẹ sống gần dân và những nhu cầu của họ, quan tâm đến họ (Lc 1:39-45; Ga 2:1-12; Cv 1:14). Là “hình ảnh hoàn hảo nhất của sự tự do, của sự giải thoát của nhân loại và của vũ trụ”,[29] Mẹ giúp ta hiểu ý nghĩa của sứ mạng. Là Mẹ và Chị, là người đi trước chúng ta trong cuộc hành trình đức tin và theo chân Chúa Giê-su, Mẹ luôn đồng hành với chúng ta để chúng ta có thể bắt chước đời sống của Mẹ ẩn giấu trong Chúa Ki-tô và dấn thân phục vụ tha nhân.
- Trong khi ban sự sống cho linh đạo Cát Minh Tê-rê-xa, sự hiện diện của Đức Ma-ri-a cũng hình thành nên công việc tông đồ của Dòng. Kết quả là người Cát Minh Tại Thế sẽ hiến thân tìm hiểu Đức Ma-ri-a tốt hơn mỗi ngày qua Tin Mừng để thông truyền cho người khác sự tôn sùng Đức Ma-ri-a đích thực nhằm đưa đến việc bắt chước nhân đức của Mẹ. Được hướng dẫn bởi cái nhìn của đức tin, các thành viên Dòng Tại Thế sẽ cử hành và cổ võ sự tôn sùng đối với Mẹ Thiên Chúa trong phụng vụ dưới ánh sáng của mầu nhiệm của Chúa Ki-tô và của Giáo Hội. Họ sẽ thực hành, trong đức tin và đức ái, những việc tôn sùng để làm vinh danh Mẹ.
ĐÀO TẠO TRONG TRƯỜNG CÁT MINH
- Đối tượng trọng tâm của tiến trình đào tạo trong Dòng Tại Thế là chuẩn bị cho người sống đoàn sủng và linh đạo Cát Minh trong việc bước theo Chúa Ki-tô, và trong việc phục vụ cho sứ mạng của Dòng.
- Với sự thành thực quan tâm đến các giáo huấn của Giáo Hội và linh đạo của các Thánh Cát Minh của chúng ta, người Cát Minh Tại Thế sẽ mưu cầu để trở thành những người nam và nữ trưởng thành trong việc thực hành đức tin, cậy và mến, và trong việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Họ tự hiến thân đào sâu đời sống Ki-tô hữu, giáo hội và Cát Minh của mình. Việc đào tạo Ki-tô hữu là nền tảng vững chắc cho việc đào tạo thiêng liêng và Cát Minh. Qua Giáo lý của Giáo hội Công giáo và tài liệu của Giáo hội, người Cát Minh Tại Thế nhận lãnh nền tảng thần học cần thiết.
- Cả việc đào tạo ban đầu và trường kỳ trong giáo huấn của Tê-rê-xa và Gio-an Thánh Giá, giúp phát triển nơi người Cát Minh Tại Thế một sự trưởng thành nhân bản, Ki-tô hữu và thiêng liêng để phục vụ Giáo Hội. Đào tạo nhân bản phát triển khả năng đối thoại giữa người và người, sự tôn trọng lẫn nhau và sự khoan dung, khả năng được sữa lỗi và sữa lỗi với sự thanh thản, và khả năng kiên trì hiến thân.
- Bản sắc Cát Minh được xác định bởi việc đào tạo về Thánh Kinh và việc đọc sách Thánh Lectio Divina, về tầm quan trọng của phụng vụ của Giáo hội, đặc biệt Bí Tích Thánh Thể và Phụng Vụ các Giờ Kinh, và về linh đạo Cát Minh, lịch sử Dòng, về những tác phẩm của các thánh Dòng, và việc đào tạo về cầu nguyện và suy gẫm.
Việc đào tạo về hoạt động tông đồ được dựa trên thần học của Giáo hội liên quan đến trách nhiệm của giáo dân[30] và dựa trên sự hiểu biết về vai trò của người Tại Thế trong việc tông đồ của Dòng. Những điều đó giúp hiểu vị trí của Dòng Tại Thế trong Giáo Hội và trong Dòng Cát Minh và giúp đưa ra một cách thức thực tiễn nhằm chia sẻ những ân sủng được lãnh nhận qua ơn gọi Cát Minh.
Sự giới thiệu dần dần vào đời sống Dòng Tại Thế được cấu trúc theo cách dưới đây:
- Một giai đoạn đủ để tiếp xúc với cộng đoàn tối thiểu là 6 tháng. Mục tiêu của giai đoạn này là để ứng sinh có thể làm quen với với cộng đoàn, kiểu sống và sự phục vụ Giáo Hội phù hợp với Dòng Tại Thế của Dòng Cát Minh Tê-rê-xa. Thời gian này cũng cho cộng đoàn cơ hội phân định một cách tương xứng. Quy chế Tỉnh Dòng sẽ qui định rõ thời gian này.
- Sau giai đoạn tiếp xúc ban đầu, Ban Cố Vấn của cộng đoàn có thể nhận ứng sinh vào một giai đoạn đào tạo nghiêm túc hơn thường kéo dài hai năm để dẫn đến việc tuyên hứa đầu tiên. Khởi đầu giai đoạn đào tạo này, Áo Đức Bà được trao cho ứng sinh. Đó là biểu tượng bề ngoài của việc trở nên thành viên của Dòng, và là dấu chỉ cho biết Đức Ma-ri-a vừa là Mẹ vừa là Gương mẫu trong hành trình này.
- Cuối giai đoạn đó, với sự chấp thuận của Ban Cố Vấn cộng đoàn, ứng sinh có thể được mời tuyên hứa lần đầu để theo các lời khuyên Phúc Âm và sống trong tinh thần các mối phúc trong thời hạn ba năm.
- Trong ba năm của việc đào tạo ban đầu, sẽ học hỏi đào sâu về cầu nguyện, Thánh Kinh, tài liệu của Giáo Hội, các Thánh Dòng và đào tạo về hoạt động tông đồ của Dòng. Cuối ba năm đó, ứng sinh có thể được Ban Cố Vấn mời tuyên hứa vĩnh viễn để sống các lời khuyên Phúc Âm và tinh thần các Mối Phúc trọn đời.
TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH
- Dòng Tại Thế của Đức Bà Núi Cát Minh và Thánh Tê-rê-xa Chúa Giê-su là một hiệp hội của các tín hữu và là một bộ phận toàn vẹn của Dòng Cát Minh Tê-rê-xa. Nó có đặc tính giáo dân, với sự mời gọi tham gia của hàng giáo sĩ địa phận.[31]
- Các nam và nữ tu sĩ Cát Minh Tê-rê-xa xem cộng đoàn giáo dân của Cát Minh Tại Thế như là một sự phong phú cho đời sống tận hiến của mình. Qua sự tương tác, các nam và nữ tu sĩ ao ước học hỏi từ người Cát Minh Tại Thế để nhận biết những dấu chỉ thời đại cùng với họ. Vì lý do đó, phải sắp xếp để các đại diện của Dòng Tại Thế hiện diện khi sứ mạng tông đồ của Dòng được hoạch định theo vùng địa dư, ở mức độ địa phương hoặc tỉnh dòng, hoặc khi có nghiên cứu nghiêm túc về tình hình trong Giáo Hội hoặc trong xã hội.
- Mọi người trung thành với Chúa Ki-tô đều có quyền tuyên khấn.[32] Với sự đồng ý của Ban Cố Vấn cộng đoàn và sự cho phép của Bề trên Giám tỉnh, một thành viên của Dòng Tại Thế có thể tuyên khấn vâng lời và khiết tịnh trước sự hiện diện của cộng đoàn. Những lời khấn này chỉ có tính cách cá nhân và không tạo thành một loại thành viên tách biệt. Lời khấn giả thiết một sự hiến thân lớn hơn về sự trung thành với đời sống Tin Mừng nhưng không biến đổi họ thành những người sống đời thánh hiến được công nhận theo pháp lý như trong các Dòng tu của đời sống thánh hiến. Những người tuyên khấn trong Dòng tại Thế tiếp tục là giáo dân trong mọi tác động pháp lý.
- Cơ cấu cở bản của Dòng Tại Thế là cộng đoàn địa phương như một dấu chỉ hữu hình của Giáo hội. Ở cấp Tỉnh Dòng và trong các cộng đoàn địa phương, Dòng Tại Thế có nhân cách pháp lý.[33]
- Về pháp lý, Dòng Tại Thế lệ thuộc Dòng Nam Cát Minh Tê-rê-xa.[34] Bề Trên tổng quyền thiết lập các cộng đoàn địa phương và thăm viếng mục vụ. Trong một số trường hợp đặc biệt Ngài có thể miễn trừ Hiến Pháp và quy chế địa phương và có thể cho phép luật trừ về mặt pháp lý. Ngài có quyền giải quyết các trường hợp mà bản luật này chưa thấy trước được và các quyền bính địa phương cũng không thể giải quyết. Một Vị Đại diện Tổng quyền hỗ trợ Bề Trên Tổng Quyền. Trách nhiệm của vì này là đẩy mạnh mối quan hệ giữa các tu sĩ và những người tại thế, đồng thời duy trì việc tiếp xúc với các vị đại diện Giám tỉnh và các Cha tuyên uý của mỗi cộng đoàn nhằm đảm bảo mục tiêu và sự lành mạnh của Dòng Tại Thế.
- Hội Đồng Giám Đinh của Dòng phê chuẩn các quy chế của miền dòng[35] và tỉnh dòng của Dòng Tại Thế.[36]
- Bề Trên Giám tỉnh, thường được Vị Đại diện Tỉnh Dòng giúp đỡ, là Bề Trên của Dòng Tại Thế trong địa phận của ngài.[37] Ngài chịu trách nhiệm về sự lành mạnh của Dòng Tại Thế trong địa phận dưới quyền tài phán của ngài. Ngài thăm viếng các cộng đoàn dưới quyền tài phán của mình và sau khi tham khảo ý kiến của Ban cố vấn, bổ nhiệm một Vị Tuyên Úy cho các cộng đoàn.[38] Trong trường hợp tranh luận, trước tiên sẽ kêu cầu vị Giám tỉnh.
- Vị Tuyên Úy cho mỗi cộng đoàn thường là một tu sĩ của Dòng. Ngài có bổn phận trợ giúp thiêng liêng cho cộng đoàn để các thành viên có thể được hướng dẫn trong ơn gọi của họ và đáp trả một cách hoàn hảo nhất. Ngài cũng sẽ nỗ lực cổ võ liên đới giữa cộng đoàn tại thế với các nam nữ tu sĩ của Dòng. Khi được Ban Cố Vấn mời, ngài có thể tham dự các buổi họp của Ban Cố Vấn, mà không có quyền bỏ phiếu. Ở những giai đoạn khác nhau của việc đào tạo ứng sinh, ngài sẵn sàng phỏng vấn họ. Ban Cố Vấn có thể tham khảo ý kiến của ngài về sự thích hợp của ứng sinh để chu toàn trách nhiệm của ơn gọi Dòng Tại Thế. Ngài sẽ nâng đỡ việc đào tạo cộng đoàn bằng sự sẵn sàng hỗ trợ Huấn luyện viên. Vị Tuyên úy phải thông thạo linh đạo Cát Minh và hiểu biết về giáo huấn của Giáo hội liên quan đến vai trò của giáo dân trong Giáo hội.
- Chỉ có Bề Trên Tổng Quyền Dòng ở những địa phận không có nam tu sĩ, hoặc Bề Trên Giám tỉnh trong địa phận của ngài, mới có thể bổ nhiệm Vị Tuyên Úy không phải là nam tu sĩ của Dòng, luôn luôn với sự đồng ý của chính bề trên của đương sự. Vị Đại diện Bề Trên Tổng quyền hoặc Bề Trên Giám Tỉnh sẽ hỗ trợ trong việc bổ nhiệm này bằng việc phỏng vấn đương. Họ sẽ tìm những phẩm chất như đã được mô tả ở số 44 của hiến pháp này.
- Ban Cố Vấn, gồm Trưởng Ban và ba Cố vấn và Huấn luyện viên, cấu thành quyền bính trực tiếp của cộng đoàn. Trách nhiệm đầu tiên của Ban Cố Vấn là đào tạo về sự trưởng thành Ki-tô hữu và Cát Minh của các thành viên trong cộng đoàn.
- Ban Cố Vấn có quyền:
- Nhận ứng sinh vào đào tạo, cho tuyên hứa, và tuyên khấn;
- Vì lý do chính đáng, rút ngắn thời gian đào tạo trước tuyên hứa tạm, với sự cho phép của Bề Trên Giám Tỉnh;
- Triệu tập cộng đoàn cho việc bầu cử 3 năm một lần;
- Thay thế, vì lý do nghiêm trọng, một thành viên của Ban Cố Vấn;[39]
- Trục xuất một thành viên của cộng đoàn nếu cần, sau khi tham khảo ý kiến của Bề Trên Giám tỉnh;[40]
- Tiếp nhận một thành viên được chuyển từ một cộng đoàn khác;
- Nếu có một sự việc nảy sinh vượt khỏi quyền hạn của Ban Cố Vấn, thì Trưởng Ban Cố Vấn có bổn phận trình lên Bề Trên Giám Tỉnh.
Ban Cố Vấn gặp gỡ thường xuyên và luôn luôn khi cần trong việc chăm lo chương trình đào tạo và sự tăng trưởng của cộng đoàn riêng của họ.
- Bề trên Tổng quyền, Bề trên Giám tỉnh và Ban Cố Vấn của cộng đoàn là những bề trên hợp pháp của Dòng Tại Thế.
- Để thiết lập một cộng đoàn mới, cần trình lên Tổng Thư Ký của Dòng Tại Thế những tài liệu dưới đây:
- Danh sách các thành viên hiện tại, tối thiểu cần có 10 thành viên để thành lập cộng đoàn, trong đó có hai người đã tuyên hứa vĩnh viễn;
- Một thư của vị đại diện Giám tỉnh yêu cầu thành lập cộng đoàn;
- Văn thư cho phép của Giám mục Địa phận;[41]
- Tên của cộng đoàn.
- Nơi họp của cộng đoàn.
- Ba năm một lần, mỗi cộng đoàn địa phương của Dòng Tại Thế bầu Trưởng Ban và ba Cố Vấn.[42] Bốn vị này, sau khi tham khảo ý kiến của Vị Tuyên Úy, bầu Huấn luyện viên từ những người đã tuyên hứa vĩnh viễn. Sau đó Ban Cố Vấn chỉ định một Thư ký và một Thủ quỷ. Quy trình bầu cử được Quy chế Tỉnh Dòng xác định, bằng cách tôn trọng sự tự do hoàn toàn của các cử tri, sở thích của đa số thành viên. Để người Trưởng được tái đắc cử lần thứ ba, cần có sự đồng ý của Bề trên Giám tỉnh.
- Trưởng Ban, được bầu từ những người đã tuyên hứa vĩnh viễn, có nhiệm vụ triệu tập và chủ trì những buổi họp của cộng đoàn. Người trưởng phải bày tỏ sự phục vụ huynh đệ cho mọi thành viên của cộng đoàn; nuôi dưỡng tinh thần hòa nhã Ki-tô hữu và Cát Minh, cẩn thận để tránh bất cứ dấu hiệu thích riêng một số thành viên so với các thành viên khác; điều phối sự tiếp xúc với các thành viên của cộng đoàn vì tuổi tác, bệnh tật, khoảng cách xa hoặc lý do khác, không thể tham gia các buổi họp; giúp Huấn Luyện Viên và Vị Tuyên Úy trong việc thi hành trách nhiệm của họ; khi họ vắng mặt, nhưng chỉ tạm thời, người Trưởng có thể thay thế hoặc chỉ định người khác trong các người đã tuyên hứa vĩnh viễn để đảm nhận công việc.
- Trách nhiệm của ba Cố vấn là, cùng với người Trưởng, điều hành cộng đoàn và nâng đỡ Huấn Luyện Viên. Một cách tổng quát họ là thành viên cộng đoàn đã tuyên hứa vĩnh viễn. Trong các tình huống đặc biệt, các thành viên đã tuyên hứa lần đầu có thể đóng vai trò cố vấn.
- Huấn Luyện Viên, được Ban Cố Vấn bầu từ những người đã tuyên hứa vĩnh viễn, có trách nhiệm chuẩn bị các ứng sinh cho tuyên hứa lần đầu và vĩnh viễn. Huấn Luyện Viên làm việc trong sự hợp tác với vị Tuyên Úy và với sự nâng đỡ của Trưởng Ban Cố Vấn. Khi người Trưởng vắng mặt, Huấn Luyện Viên là người thay thế cho bất kỳ chức năng nào.
- Thư ký của Ban Cố Vấn có trách nhiệm cập nhật sổ sách của cộng đoàn, ghi chép kết quả các cuộc bầu cử, người mới gia nhập, tuyên hứa và rời khỏi cộng đoàn. Thư ký báo cáo sổ sách cho Ban Cố Vấn trong buổi họp và cho cộng đoàn lúc bầu cử. Thư ký tham dự các buổi họp của Ban Cố Vấn và ghi lại biên bản cuộc họp, và không có quyền bầu cử.
- Thủ quỹ có bổn phận quản trị tiền quỹ của cộng đoàn. Thủ quỹ trình bày báo cáo tiền quỹ cho Ban Cố Vấn 6 tháng một lần, cho cộng đoàn và Bề Trên Giám tỉnh, hoặc Bề Trên của miền mỗi năm 1 lần.[43] Quy chế địa phương sẽ xác định cách cộng đoàn chăm sóc nhu cầu của người nghèo.
- Các thành viên của Dòng Tại Thế, vì lý do ở xa, tuổi tác, bệnh tật, không thể tham dự đều đặn các buổi họp của cộng đoàn, vẫn là thành viên của Dòng Tại Thế và, dưới quyền của Vị Đại diện Bề Trên Giám tỉnh, có thể được kết hợp với một cộng đoàn đặc biệt. Trưởng cộng đoàn có trách nhiệm liên lạc với những thành viên đó và các thành viên đó cũng có trách nhiệm duy trì mối quan hệ với cộng đoàn.
- Nơi nào các nam tu sĩ của Dòng được tổ chức hẳn hoi, Dòng Tại Thế phải thành lập một Ban Cố Vấn tỉnh dòng để hỗ trợ nhau tốt hơn trong việc đào tạo và hoạt động tông đồ, nhưng không phải để can thiệp vào việc điều hành các cộng đoàn địa phương. Người Trưởng Ban Cố Vấn tỉnh dòng phải là một thành viên của Dòng Tại Thế đã tuyên hứa vĩnh viễn. Ban Cố Vấn tỉnh dòng phải đệ trình quy chế cho Hội Đồng Giám Định để được phê chuẩn.
- Quy chế Tỉnh Dòng sẽ xác định những vấn đề như sau:
- Việc triển khai một chương trình đào tạo tương xứng;
- Việc chấp nhận và đào tạo những thành viên mới không sống gần cộng đoàn đã được thiết lập; trong mọi trường hợp những ứng sinh mới phải được liên kết với và đào tạo bởi một cộng đoàn đã được thành lập. Họ được xem như là thành viên của cộng đoàn đó;
- Quy trình bầu cử và trách nhiệm của ba cố vấn;
- Sự tưởng nhớ các thành viên trong cộng đoàn đã qua đời;
- Hoàn cảnh và điều kiện để tuyên khấn;
- Tuổi tối thiểu và tối đa để nhận thành viên mới;
- Số thành viên tối đa của cộng đoàn trước khi chia cộng đoàn thành một cộng đoàn mới;
- Sự điều phối về những nỗ lực tông đồ trong cộng đoàn hoặc tỉnh dòng;
- Hình thức và cách dùng dấu chỉ bề ngoài của mối quan hệ thành viên trong Dòng Tại Thế;
- Thực hành hãm mình và biểu lộ lòng sùng kính Rất Thánh Đức Mẹ và các thánh Cát Minh.
- Nếu một cộng đoàn Cát Minh Tại Thế không thuộc về một Tỉnh Dòng cụ thể nào thì cộng đoàn phải tự xây dựng quy chế để xác định những điều trên. Cộng đoàn đó trình quy chế lên Hội Đồng Giám Định để được phê chuẩn.
- Các cơ cấu khác có thể được giới thiệu ở cấp quốc gia khi có hơn 1 Tỉnh dòng, hoặc ở cấp quốc tế, nếu thấy hữu ích hay cần thiết cho việc đào tạo, cho việc phối hợp với các hoạt động tông đồ của Dòng, và để tổ chức ộiHo65Hội Nghị. Tuy nhiên, chúng không có quyền pháp lý nào. Những Ban Cố Vấn vùng đó phải đệ trình quy chế của họ cho Hội Đồng Giám Định để được phê chuẩn.
LỜI KẾT
Hiến Pháp Dòng Tại Thế được soạn thảo để củng cố mục đích sống của các thành viên, là những người làm nên một bộ phận của Dòng Cát Minh Tê-rê-xa. Họ được mời gọi để “làm chứng rằng chỉ đức tin Ki-tô giáo mới hoàn toàn giải đáp được những vấn nạn và hy vọng mà cuộc sống đặt ra cho mọi người và xã hội.”[44] Người Cát Minh Tại Thế chu toàn điều này, nếu khi bắt đầu với sự hiến thân chiêm niệm, họ thành công làm chứng hằng ngày trong đời sống gia đình và xã hội về “một sự tiếp cận hợp nhất với cuộc sống nhờ sự cảm hứng và sức mạnh của Tin Mừng.”[45] Là những người Cát Minh Tại Thế, con cái của thánh Tê-rê-xa Chúa của Giê-su và thánh Gio-an Thánh Giá, họ được mời gọi “làm chứng cho thế giới về sự phục sinh và đời sống của Đức Giê-su và biểu tượng của Thiên Chúa hằng sống”,[46] bằng đời sống cầu nguyện, loan báo Tin Mừng và chứng nhân của cộng đoàn Ki-tô hữu và Cát Minh. “Tất cả giáo dân như một cộng đoàn và mỗi người tùy theo khả năng phải nuôi dưỡng thế giới với hoa quả thiêng liêng (x. Gal 5:22). Họ phải phổ biến trong thế giới tinh thần cổ vũ người nghèo, người hiền lành, người kiến tạo hòa bình – là những người được Chúa gọi là có phúc trong Tin Mừng (x. Mt 5:3-9). Tắt một lời, Ki-tô hữu (và người Cát Minh) phải ở trong thế giới như linh hồn ở trong thân thể.”[47]
TRÍCH DẪN CHÚ THÍCH
[1] LG 31-35
[2] LG 31; CL 9
[3] CIC 204-205
[4] Luật tiên khởi 1
[5] Tstt 8:5
[6] X. Lc 2:51
[7] X. Ga 2:5
[8] X. Cv 1:14
[9] X. 1V 17-19
[10] Tstt 7:18; 38:16
[11] Đht 21:2
[12] Lđnt V:3:11; VII:4:6
[13] X. Châm Ngôn 46; Nltn 3:78; 2 Đlncm 6; 29:6; Lời nguyện nhập lễ Thánh Gioan Thánh Giá
[14] Châm ngôn 123; Thư 12/X/1589:19
[15] X. 3 Đlncm 23:1
[16] Ncb 1 và 6
[17] Luật tiên khởi 2 và 10
[18] DV 25; Đht 21:4; M 1:6,11
[19] AA 4
[20] Đht 4:2
[21] CL 33
[22] X. AA 4,10; CL 16-17, 25, 28-29
[23] Lđnt V:3,11; x. VII:3
[24] X. AA 2-3
[25] X. CD 11; AA 86; CL 25
[26] VC 55
[27] OCDS Luật sống (1979) số 8
[28] MC 37
[29] RM 37
[30] AA 28-29
[31] CIC 298, 301
[32] Nghi thức, Dẫn Nhập: 9; 30-49
[33] CIC 301, 303-306, 313
[34] CIC 305; 311-315
[35] “Miền dòng” ám chỉ các quốc gia hoặc một vùng địa lý rộng hơn một Tỉnh Dòng
[36] CIC 307 €1; 314
[37] CIC 328-329, Hiến Pháp Dòng Nam Cát Minh Tê-rê-xa 103, Qui Tắc Áp Dụng 56
[38] CIC 317
[39] CIC 318
[40] CIC 308, 316
[41] CIC 312€2
[42] CIC 309
[43] CIC 319
[44] CL 34
[45] CL 34
[46] LG 38
[47] LG 38