“Xã Hội Đời Tu” Luôn Cần Những “Nguyên Tắc” Và “Giá Trị”

“Xã Hội Đời Tu” Luôn Cần Những “Nguyên Tắc” Và “Giá Trị”

Nữ tu Anna Phạm Thị Kim Oanh
(Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Tình Thương)

Trong xã hội hôm nay, có nhiều tôn giáo khác nhau và mỗi tôn giáo đều có những giáo huấn riêng, nhưng dường như một số tôn giáo chỉ có những giáo huấn về luân lý cá nhân. Khác với một số tôn giáo, ngoài những giáo huấn về luân lý các nhân, Kitô giáo nói chung -cách riêng là Công Giáo còn chú trọng đến luân lý của các cộng đoàn xã hội; hay nói cách khác, chú trọng đến vai trò của con người xét trong tương quan với xã hội, với những vấn đề nóng bỏng của thời đại.

Tất cả những vấn đề đó được tóm gọn dưới danh từ “Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội Công Giáo”. “Học thuyết xã hội là đạo lý mà các Giáo Hoàng và cộng đoàn đã trình bày về các vấn đề công bằng xã hội” mà quá trình hình thành của nó trải dài suốt chiều dài lịch sử: từ thời các ngôn sứ, các giáo phụ, các nhà thần học…và thời điểm mà chúng ta có thể lấy làm mốc là Thông điệp “Rerum Novarum” của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII.

Học thuyết xã hội Công Giáo được triển khai trên bốn nguyên tắc cốt lỏi: phẩm giá, công ích, bổ trợ và liên đới; cùng với bốn giá trị nền tảng: sự thật, tự do, công lý và yêu thương. Những nguyên tắc và giá trị này được xem như là trọng tâm và là nền tảng của các giáo huấn của Giáo Hội. Các nguyên tắc và các giá trị của học thuyết xã hội không chỉ được áp dụng trong xã hội đời thường mà chúng ta còn có thể áp dụng vào chính trong xã hội đời tu, hay cụ thể hơn, đời sống cộng đoàn tu trì.

Thật vậy, không chỉ xã hội đứng trước những thách đố về giá trị phẩm chất con người mà ngay trong chính cộng đoàn tu trì cũng khó có thể tránh khỏi những vấn nạn đó. Vậy, để giá trị phẩm chất của mỗi người được nâng cao thì cộng đoàn tu trì cũng cần lấy những nguyên tắc và các giá trị của học thuyết xã hội làm trọng tâm và nền tảng trong mối tương quan liên vị trong cộng đoàn.

Trước hết, chúng ta đi vào các nguyên tắc.

Thứ nhất, đó là nguyên tắc phẩm giá (nhân vị).

Có thể nói, phẩm giá con người là nội dung cốt yếu của học thuyết xã hội. “Trong những hoàn cảnh cụ thể của lịch sử, con người chính là trọng tâm và linh hồn của tư duy xã hội Công Giáo. Thật vậy, toàn bộ Học thuyết xã hội Công Giáo chẳng qua chỉ là triển khai nguyên tắc: con người có phẩm giá bất khả xâm phạm. Trong tất cả những nghĩa cử đa dạng bày tỏ nhận thức ấy, Giáo Hội luôn cố gắng bên vực phẩm giá con người mỗi khi có toan tính xác định lại hay bóp méo hình ảnh ấy; Giáo Hội cũng thường xuyên tố cáo những sự xâm phạm phẩm giá con người. Lịch sử đã xác nhận rằng chính cơ cấu hình thành nên các quan hệ xã hội nổi lên một số khả năng làm thăng hoa con người, nhưng cũng chính trong cơ cấu ấy lại tiềm tàng những loại bỏ ghê tởm nhất đối với phẩm giá con người”.

Chúng ta không thể tránh né hay loại trừ thực trạng này trong các cộng đoàn dòng tu. Cơ cấu, luật lệ là những yếu tố làm nên một cộng đoàn tu trì và giúp các thành viên trong cộng đoàn sống theo một linh đạo, một đường hướng chung, đồng thời giúp làm triển nở đời sống trong linh đạo-đường hướng đó. Tuy nhiên, nhiều cộng đoàn tu trì vì quá chú trọng đến cơ cấu, luật lệ, hình thức rập khuôn bên ngoài mà thiếu đi vào chiều sâu để phát triển từng nhân vị theo như họ là. Lối hành xử quen thuộc và được ưa chuộng của các cộng đoàn tu trì “trên bảo sao dưới làm vậy”. Chính cách hành xử ấy làm cho mỗi cá nhân, cộng đoàn mất hẳn sức sống, mất hẳn cung cách và nét độc đáo riêng.

Đa số các cộng đoàn tu trì thường chú trọng nhiều vào đời sống kỷ luật sao cho thật trật tự, nề nếp, ổn định, không có gì nổi cộm hay trục trặc, mà không chú tâm đủ việc đi vào từng nhân vị để đào tạo sự trưởng thành. Một cộng đoàn lấy luật lệ làm thước đo và sẵn sàng áp dụng mọi hình thức kỷ luật để chỉ nhắm đến sự ổn định, xuôi chảy, không gì sai chạy sẽ sớm trở thành một cộng đoàn vô hồn, tồn tại cách tẻ nhạt và thiếu sức sống, thiếu tình yêu, thiếu sự cảm thông, đồng cảm….

Một khi đã trở nên một cộng đoàn “đẹp hình thức” nhưng vô hồn thì không còn đủ nhạy cảm để biết lắng nghe “những âm thanh và giai điệu tế nhị” của người khác; đôi khi còn chà đạp lên nhân phẩm của người khác, không tôn trọng thế giới riêng tư của người khác, cái thế giới mà chỉ có Thiên Chúa mới có quyền biết…

Như vậy, để mỗi người được triển nở trong đời sống cộng đoàn tu trì thì mọi thành viên trong cộng đoàn cần phải tôn trọng mỗi người như một nhân vị cá biệt, độc đáo và bất khả xâm phạm. Hơn thế nữa, cần khuyến khích sự thăng tiến và phát triển đúng nghĩa tính độc đáo của từng nhân vị để đời sống cộng đoàn tu trì càng trở nên đa dạng và phong phú hơn. Chỉ khi nào phẩm chất của mỗi nhân vị được tôn trọng xứng đáng, thì họ mới có thể trưởng thành cách lành mạnh về nhân bản và tâm linh, đầy ý thức về bản thân và về sứ vụ của mình chứ không trở thành như những cái máy được cài lệnh và chúng phải vận hành đúng qui tắc theo các phương trình có sẵn.

Thứ hai, nguyên tắc công ích.

Công ích chính là thiện ích chung về vật chất cũng như tinh thần dành cho mọi người; nghĩa là công ích nhắm đến lợi ích của một xã hội, một tập thể, một cộng đoàn, nó vượt xa hơn nhu cầu của bản thân. Một xã hội, một tập thể hay một cộng đoàn muốn và có ý định tiếp tục phục vụ con người phải lấy công ích – tức là lợi ích của hết mọi người và của con người toàn diện – làm mục tiêu tiên quyết của mình.

Con người không thể tìm được sự phát triển mỹ mãn chỉ nơi bản thân mình, nếu bỏ qua sự kiện con người hiện hữu với người khác và cho người khác. Tuy nhiên, muốn đạt được ý nghĩa trọn vẹn nhất, công ích phải phát xuất từ chính phẩm giá, sự thống nhất và bình đẳng của hết mọi người. Cũng thế, trong đời sống cộng đoàn tu trì, mỗi người sống đều hướng đến ích chung nhằm để xây dựng cộng đoàn, nhưng không vì lý do đó mà lại bỏ qua hay coi nhẹ lợi ích của mỗi cá nhân; vì dù là lợi ích cho cộng đoàn thì cũng là để nhằm xây dựng cho mỗi cá nhân, phát triển từng nhân vị và nhắm đến cùng đích tối hậu là Thiên Chúa. Nếu như chỉ nhắm đến và đặt mục tiêu cho công ích mà không quan tâm đến lợi ích của cá nhân thì rất có thể sẽ làm tổn thương phẩm giá của từng nhân vị. Và như thế, công ích không còn mang giá trị và ý nghĩa theo đúng một đích của nó nữa.

Thứ ba, nguyên tắc bổ trợ.

Nguyên tắc bổ trợ là một trong những định hướng bền vững và đặc thù nhất của học thuyết xã hội Công Giáo, đã có mặt trong học thuyết ấy ngay từ văn kiện xã hội đầu tiên (Lêô XIII, Rerum novarum). Bổ trợ được hiểu như là sự trợ giúp hay can thiệp của một tổ chức cấp trên để yểm trợ, bổ túc cho các cơ cấu xã hội hay tổ chức thấp hơn, nhưng không bao giờ làm thay hay làm suy giảm trách nhiệm của các tổ chức này.

Đây cũng được xem như là một nguyên tắc cần thiết cho đời sống cộng đoàn tu trì. Mỗi nhiệm vụ, mỗi công việc cần được chia cho các nhóm hoặc cho các cá nhân. Mỗi nhóm, mỗi cá nhân có trách nhiệm chu toàn nhiệm vụ, công việc của mình một cách có trách nhiệm và chỉ yêu cầu sự nâng đỡ từ cấp cao hơn khi cảm thấy vượt quá sức mình. Các cấp cao hơn có trách nhiệm hỗ trợ khi các nhóm hay cá nhân cần giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy vậy, cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, nhóm…và khuyến khích sáng kiến của cá nhân, vì có khả năng giúp đỡ chính mình. Đây là một yếu tố quan trọng của phẩm giá con người. Thật là một sai lầm khi các cấp cao hơn ôm đồm hết mọi công việc mà không giao cho các nhóm nhỏ hay các cá nhân làm những việc họ có thể làm được dựa vào sáng kiến và sự chuyên cần của họ, vì như thế là đang đi ngược lại với giá trị và ý nghĩa của nguyên tắc bổ trợ.

Thứ tư, đó là nguyên tắc liên đới.

Nguyên tắc liên đới là nguyên tắc hiện nay được nhấn mạnh nhiều nhất trong học thuyết xã hội Công Giáo, và cũng là nguyên tắc được đưa vào ứng dụng thực tế nhiều nhất. “Liên đới diễn tả chiều kích xã hội của con người”. Nghĩa là con người có tương quan qua lại với nhau. Liên đới không phải là một sự đồng cảm mơ hồ hay xúc động hời hợt trước những đau khổ của bao người xa gần. Nhưng đó là quyết tâm chắc chắn và bền vững lo cho công ích, nghĩa là cho lợi ích của tất cả và của từng người, bởi vì tất cả chúng ta thực sự đều có trách nhiệm về mọi người.

Đây là một thái độ hoàn toàn có tính chất phúc âm: dấn thân lo cho ích lợi của tha nhân, sẵn sàng như Tin mừng nói, “chết đi” cho người khác, thay vì bóc lột họ, “phục vụ” người khác thay vì đàn áp họ để mưu lợi ích riêng (x. Mt 10, 40 – 42; Mc 10, 42 – 45; Lc 22, 25 – 27). Sống trên đời không ai có thể tự sống cho riêng mình mà không cần tương quan hay giúp đỡ từ người khác. Đây là yếu tố không thể thiếu trong thực tế đời sống xã hội và đặc biệt là trong đời sống cộng đoàn tu trì.

Sống trong cộng đoàn mỗi người cần có tương quan. Tương quan trong đời sống cộng đoàn đó chính là sự nâng đỡ nhau. Người già kiên nhẫn và lắng nghe người trẻ, người trẻ yêu thương và kính trọng người già; người có bằng cấp nâng đỡ những người ít học vấn; người khỏe chăm sóc người đau yếu; người có đức tin mạnh nâng đỡ những người yếu đuối. Mỗi người luôn quan tâm và để ý đến cuộc sống về nhu cầu thể xác cũng như những nhu cầu tâm hồn của từng người nhất là những chị em hèn kém, già yếu, bệnh tật, những chị em gặp thử thách lầm lỡ.

Mỗi người lo cho người khác đến mức chúng ta nhìn thấy nơi chị em như một bản thân khác của mình, được Chúa thương yêu vô biên. Thật vậy, tương quan giúp thăng tiến con người nhờ sự hiểu biết các ý tưởng, lý lẽ, nhu cầu, mong ước của người khác, và để có thể phát triển nhân cách của mình cách trọn vẹn hơn.

Tương quan không chỉ giúp cho mỗi người phát triển nhân cách mà còn đi đến sự hiệp thông, hiệp thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi qua Đức Giêsu Kitô- Đấng liên kết nhân loại với nhau và với Thiên Chúa. “Tột đỉnh của viễn tượng mà chúng ta đang nói đến ở đây chính là cuộc đời Đức Giêsu Nazaret, Con Người Mới, Đấng đã kết hợp với nhân loại sâu xa đến mức “chết trên thập giá” (Pl 2,8). Nơi Người, chúng ta luôn luôn nhận ra dấu chỉ sống động của một tình yêu khôn lường và siêu việt của “Thiên Chúa với chúng ta”, Đấng đã mang lấy những bệnh tật của dân mình, cùng đồng hành với họ, cứu thoát họ và hợp nhất họ thành một”.

Các nguyên tắc của học thuyết xã hội là yếu tố quan trọng. Tuy nhiên, nó không phải là nền tảng duy nhất để xây dựng một xã hội, một cộng đoàn tốt đẹp nhưng còn cần đến những giá trị, vì tự bản chất học thuyết xã hội gắn liền với những giá trị phổ quát. Học thuyết xã hội đưa ra các giá trị nền tảng: sự thật, tự do và công bằng. Thế nhưng, để con người thật sự chung sống tử tế với nhau còn phải thêm tình yêu và lòng thương xót. Vì thế, thánh Tôma Aquinô nói: “công lý mà thiếu vắng lòng thương xót là độc ác; thương xót mà không có công lý là nguồn gốc của suy đồi”. Vậy ta thử đi vào đào sâu từng giá trị một để thấy được những giá trị thật sự của nó.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *