Đêm tối và ngọn lửa – Con đường Cát Minh

ANNE – ELISABETH STEINMANN

Nữ đan sĩ Cát Minh

ĐÊM TỐI

NGỌN LỬA

CON  ĐƯỜNG  CÁT  MINH

Đêm Tối

Ngọn Lửa

 

CON  ĐƯỜNG  CÁT  MINH

Đề tựa:

Cha Joseph Baudry O.C.D

Nhà xuất bản Saint Paul – Paris – Pribourg.

Chuyển ngữ

Nt. Catherine Nguyễn thị Lộc

Dòng Đức Bà

Kính tặng song thân:

Elsa và Julius STEINMANN,

Đã đóng góp rất nhiều để làm cho mầm đức tin

nhận lãnh từ phép Thánh Tẩy lớn lên nơi con;

Các chị em yêu dấu: Béatrice, Véra và Eva.

Kính tặng

các Anh Chị Em Dòng Cát Minh thân ái của tôi.

 

Nihil obstat: Père Joseph BAUDRY o.c.d

Montpellier, 10.10.1981

Imprimatur: Gilles BARTHE,

Giám Mục Fréjus – Toulon.

Toulon, 16.11.1981

Nội dung

Lời Tựa

Dẫn nhập

Ký hiệu các tài liệu tham khảo

. I .  Lịch sử Dòng Cát Minh

1/ Nguồn gốc lịch sử và Luật Dòng

2/ Dòng Cát Minh ở Tây Phương. Thích nghi Luật Dòng

3/ Thần học gia và các nhà nhân văn.

4/ Suy thoái và giảm chế

5/ Những cuộc cải cách ở Mantoue, Albi và Montolivet

6/ Vị Bề Trên Tổng Quyền Cải Tổ vĩ đại

7/ Nữ đan sĩ Dòng Cát Minh

8/ Các tu hội đời hoặc Dòng Ba và các Hội Dòng Cát Minh.

9/ Cuộc cải cách của Thánh Têrêsa

10/ Dòng Cát Minh Cải Tổ lan rộng ở Châu Âu

11/ Những cuộc cải cách trong Dòng Cát Minh

theo luật cũ, thế kỷ XVII

12/ Sa mạc và ẩn viện

13/ Các điểm truyền giáo

14/ Các văn sĩ, từ thế kỷ XVI – XX

15/ Yên ổn, sa sút và hủy diệt

16/ Canh tân

. II.  Những nhân vật gương mẫu trong Kinh Thánh

  1. Ngôn sứ Elia
  2. Đức Trinh Nữ tinh tuyền là Mẹ,

và là vẻ đẹp của Dòng Cát Minh

. III .  Các bậc thầy vĩ đại về đời sống thiêng liêng

1.Thánh Têrêxa Avila

  1. Thánh Gioan Thánh Giá
  2. Thánh Têrêsa Lisieux

. IV. Các chứng nhân hôm qua và hôm nay

  1. Thánh Alberto, Thượng Phụ Giáo Hội Giêrusalem và là Đấng lập Luật Dòng Cát Minh
  2. Thánh Simon Stock
  3. Thánh Phêrô Tôma
  4. Thánh André Corsini
  5. Thánh Jean Soreth
  6. Chân phước FranVoise d’Ambroise
  7. Thánh Marie Madeleine de Pazzi
  8. Chân phước Marie de l’Incarnation (Mme Acarie)
  9. Chân phước Anne de Saint Barthélemy
  10. Thầy Jean de Saint Samson
  11. Các chân phước Denis de la Nativité (Pierre Berthelot) và Rédempt de la Croix (Thomas Rodriguez)
  12. Thầy Laurent de la Résurrection
  13. Thánh Têrêxa-Margarita Thánh Tâm Chúa Giêsu
  14. Các nữ chân phước tử đạo Dòng Cát Minh ở Compiègne
  15. Thánh nữ Joachime de Vedruna
  16. Chân phước Élisabeth Chúa Ba Ngôi
  17. Chân phước Titus Brandsma
  18. Thánh Thérèse-Bénédicte de la Croix (Edith Stein)
  19. Cha Marie- Eugène de l’Enfant Jésus (Henri- Grialou)

.V. Thần Khí và Sự Sống. Ba Ơn Gọi

  1. Ơn gọi tạo dựng
  2. Ơn gọi Thánh Tẩy
  3. Ơn gọi tu trì và ơn gọi Cát Minh

Thay lời kết luận.



Lời Tựa

 Trong lúc Công đồng Vatican II diễn ra tại Rome, nữ tu Élisabeth Steinmann trao cho chúng ta quyển sách “Cát Minh sống động” của chị, một tổng luận bé nhỏ, nhanh nhẹn, được tham khảo đầy đủ tài liệu về lịch sử các nhân vật vĩ đại và tinh thần Dòng chúng ta. Tác phẩm này đã giúp ích nhiều, ngày nay không còn in nữa. Vả lại, nhiều điều đã thay đổi từ lúc đó, trong Dòng Cát Minh cũng như các nơi khác trong Giáo Hội và trên thế giới. Tuy nhiên, hai mươi năm qua đã thấy xuất bản nhiều công trình quan trọng, nó giúp chúng ta xác định, phong phú hóa và thậm chí, đổi mới phần nào kiến thức của chúng ta về truyền thống Cát Minh.

Vì thế, một hôm, nhân dịp tiếp xúc với nữ tu này, tôi hỏi chị có chấp nhận viết lại cuốn sách của chị không. Không chút do dự, chị nhận lời ngay. Khi đó tôi đương nhiệm Giám Tỉnh miền Nam nước Pháp và tôi đã tạo được mối quan tâm của gia đình Cát Minh nói tiếng Pháp, đối với dự án này. Sự khuyến khích đã giúp nữ tu Anne – Élisabeth Steinmann thắng vượt mọi khó khăn, trong số đó, những khó khăn chính yếu là do điều kiện sống của chị, ẩn sĩ, ở xa mọi sự trong cô tịch vùng Provence. Kết quả của cố gắng kiên trì này là quyển sách mà chị xin tôi giới thiệu hôm nay đây, một quyển sách hoàn toàn do công trạng của chị.

Như tựa đề, vừa thi vị vừa chính xác cho thấy: “ĐÊM TỐI VÀ NGỌN LỬA: Con đường Dòng Cát Minh”, đây không phải là tái bản quyển “Cát Minh sống động”, nhưng là một quyển sách mới. Tuy nhiên, sách này cùng một chủ đề với quyển trước đây của chị, không những về đề tài mà còn vì các đức tính tương tự của nó là rõ ràng trong cách trình bày, chính xác về lịch sử, lời văn lôi cuốn nhằm mục đích vừa giáo lý vừa thực tiễn, quan tâm đến truyền thống cổ xưa của Dòng Cát Minh, hiện nay, đại diện là các tu sĩ Cát Minh Nguyên Thủy và sự phát triển thiêng liêng dồi dào của nhánh phát xuất từ cuộc Cải Tổ của Mẹ Têrêxa. Tuy nhiên, lần này tác giả nhấn mạnh nhiều về tinh thần Dòng Cát Minh hơn là trên lịch sử Dòng. Chị đã tìm cách trình bày hiện tại hóa, sống động và đầy đủ hết sức, đáng khen nhất là chị đã ưu tư đặt Dòng Cát Minh trong một bối cảnh rất cởi mở về mặt nhân bản hoặc trong viễn tượng của Giáo Hội. Ta sẽ thích thú cách đặc biệt việc chị Anne – Élisabeth liên kết tinh thần Cát Minh với truyền thống lớn các Giáo Phụ và đan tu trước đó.

Xin chân thành cám ơn chị về tác phẩm quý báu chị đã cho chúng ta và nó sẽ giúp ích rất nhiều, nhất là trong năm này, trùng hợp với kỷ niệm bốn trăm năm Mẹ Thánh Têrêxa qua đời. Như vậy, những kẻ ngưỡng mộ Thánh Nữ sẽ có thể hiểu rõ hơn tại sao người rất hãnh diện “được làm con cháu giòng giống các tu sĩ thánh thiện Núi Cát Minh”, và rất khát khao “bước theo gót các ngài và đưa Dòng Đức Nữ Đồng Trinh Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương và Quan Thầy  của chúng ta, trở về Luật Nguyên Thủy”.

Cha Joseph Baudry

Dòng Cát Minh – Montpellier

Dẫn nhập

Đêm tối và ngọn lửa … Tại sao lại giới thiệu Dòng Cát Minh dưới hai biểu tượng sống động này ? Một đàng, theo gót thánh Gioan Thánh Giá, các nhà thần nhiệm Dòng Cát Minh đã dùng các biểu tượng này để nói lên phần nào kinh nghiệm của họ. Đàng khác, đạt đến nơi sâu thẳm nhất của sự thật, bao gồm mầu nhiệm ẩn giấu nơi mọi thực tại giấu ẩn và thiêng liêng. Vừa nghịch lý vừa không tách rời nhau được, vì bóng tối và ánh sáng định nghĩa cho nhau, hai biểu tượng này diễn tả đặc điểm lịch sử và các nhân vật vĩ đại của linh đạo Cát Minh. Nguồn gốc của Dòng mất hút trong đêm tối của thời gian để gặp gỡ ngọn lửa mãnh liệt và tinh tuyền của ngôn sứ Êlia được xem như một người Cha tinh thần. Một cách ẩn hiện khôi hài, Dòng Cát Minh hành trình qua các thế kỷ, cho xuất hiện, ở mỗi thời đại, những nhà thần nhiệm: những bậc kỳ tài như thánh Têrêsa, thánh Gioan Thánh Giá và, nhiều hơn nữa, những vị vẫn ẩn giấu nơi Đức Kitô trong Thiên Chúa.

Linh đạo Cát Minh là một âm vang của Tin Mừng trong những gì tuyệt đối nhất và nghịch lý nhất của Phúc Âm. Ai muốn theo Chúa Giêsu thì hãy chấp nhận mất mạng sống mình để tìm lại được nó; hãy vác thập giá của mình và chết trên đó, hiến mạng sống mình vì anh em, để được vào trong niềm vui rực rỡ của sự Phục Sinh – ngay hôm nay chứ không phải ngày mai hoặc sau này. Dòng Cát Minh tìm cách thực hiện đúng mặt chữ các lời khúc mắc này. Biến cố Phục Sinh được diễn tả bằng đêm tối và ngọn lửa, đem lại cho đời sống Kitô hữu ý nghĩa viên mãn của nó. Được thông phần vào cuộc đau khổ cứu độ của Đức Kitô, họ cũng tham gia vào vinh quang của Ngài, Ánh Sáng huy hoàng của Thần Khí lôi cuốn chúng ta về Chúa Cha. Tất cả Dòng Cát Minh quy về điều đó. Dòng này đã chẳng đề nghị một giải đáp cho nỗi khát khao thiêng liêng không chối cãi được, đang bừng lên trong lòng thế giới hôm nay sao ?

Những ai xa gần đã góp phần vào công việc này bằng lời khuyên và tài liệu sách vở, xin vui lòng nhận nơi đây lòng biết ơn của chúng tôi. (Tiếc rằng những lý do kỹ thuật đã buộc chúng tôi thu gọn tối đa các ghi chú sách tham khảo)

Trước hết, chúng tôi xin cám ơn cha Joseph Baudry, o.c.d, trong nhiệm kỳ làm Giám Tỉnh, cha đã gợi ý cho tác giả viết quyển sách này, và đã nhận kiểm duyệt bản văn. Xin cám ơn cha Adrianus Staring, o.c, với những nhận xét của cha về mặt lịch sử; Cha Herbert Roth, Dòng Tên, với những gợi ý tổng quát về những gì liên quan đến đời tu và các tu sĩ Dòng Cát Minh của Đan Viện Pâquier (Thụy Sĩ), về sự giúp đỡ của các ngài trong việc duyệt lại bản thảo

Ký hiệu các tài liệu tham khảo

CAN    Tư tưởng về Diễm Ca. Thánh Têrêsa Avila

CC       Hiến Pháp Dòng Cát Minh. Rome 1976

CP       Đường Hoàn Thiện

CS       Ca Thiêng. Thánh Gioan Thánh Giá

CT       Hiến Pháp sơ khởi các nữ đan sĩ

            Dòng Cát Minh. Thánh Têrêsa Avila

DC      Tuyên ngôn cho các nữ đan sĩ Cát Minh Cải Tổ

DE       Những cuộc nói chuyện cuối cùng.

            Thánh Têrêsa H.Đ.G

ET       “Tôi đã tìm được Thiên Chúa”.

            Chân phúc Élisabeth Chúa Ba Ngôi

EXC    Lời cảm thán. Thánh Têrêsa Avila

KW     Khoa học Thập Giá. Edith Stein

LD      Lâu Đài Nội Tâm. Thánh Têrêsa Avila

LE       Thư. CP. Élisabeth  Chúa Ba Ngôi

LF       Sách Lập Dòng. Thánh Têrêsa Avila

LJ        Thư. Thánh Gioan Thánh Giá

LM       Thư. Thánh Têrêsa Avila

LT        Thư. Thánh Têrêsa H.Đ.G

MA       Thủ Bản Tự Thuật. Thánh Têrêsa H.Đ.G

MAX    Châm Ngôn. Thánh Gioan Thánh Giá

MC       Lên Núi Cát Minh. Thánh Gioan Thánh Giá

NO       Đêm Tối. Thánh Gioan Thánh Giá

PC        Đức Ái hoàn hảo. Công đồng Vatican II

PE        Thơ. Cp Élisabeth  Chúa Ba Ngôi

PJ         Thơ. Thánh Gioan Thánh Giá

PM       Thơ. Thánh Têrêsa Avila

PRF     Cẩn mật thiêng liêng. Thánh Gioan Thánh Giá

PVT     Các bản văn cổ nhất Dòng Cát Minh.

            Cha FranVois de Sainte Marie OCD

RC       Luật Dòng Cát Minh

RT       Tự Thuật thiêng liêng. Thánh Têrêsa Avila

SC       Các Thánh Dòng Cát Minh

VL       Tiểu Sử. Thánh Têrêsa Avila

VT       Lửa Thiêng tình yêu. Thánh Gioan Thánh Giá

. I .Lịch sử Dòng Cát Minh

 “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy” (Ga 3,8). Chúng ta có được phép gợi lại việc ra đời bí nhiệm của Dòng Cát Minh theo ánh sáng lời này của Chúa Kitô không ? Nguồn gốc cụ thể của Dòng được các ẩn sĩ Tây Phương thiết lập trước đầu thế kỷ XII trên Núi Cát Minh, không ai biết đến. Các tu sĩ Dòng Cát Minh không thể, như các dòng tu khác, quy chiếu về một nhân vật lịch sử vĩ đại, họ có thể tôn kính như là vị sáng lập của họ. Người ta hoàn toàn không biết gì về căn tính cá nhân các ẩn sĩ tiên khởi vào thời họ đến Thánh Địa, những thăng trầm đời sống cá nhân và tập thể của họ, về sự phát triển dần dần nơi ở và lối sống của họ. Ta có thể có cảm tưởng rằng Dòng sinh ra trực tiếp từ Chúa Thánh Thần. Ngài đã thúc đẩy cách bí nhiệm các ẩn sĩ đầu tiên đến nơi cô tịch của Núi Cát Minh để, không trống không kèn, ở tại nơi ngày nay gọi là Wadi’ ain es – Siah để sống ẩn dật, tìm kiếm duy một mình Thiên Chúa.

1/ Nguồn gốc lịch sử và Luật Dòng

Ngay từ cuối thế kỷ XII, Dòng Cát Minh đã ra khỏi bóng tối và đi vào lịch sử. Bằng chứng đầu tiên nói đến Dòng là của Đức Cha Jacques Vitry, Giám Mục Saint Jean d’ Acre, ngài kể lại rằng, vào thời đó, những người thánh thiện, noi gương ngôn sứ Elia, con người thánh thiện và đơn độc, sống tách biệt một nơi trên Núi Cát Minh, gần suối Elia, ở những hang nhỏ trong núi đá, và họ như những con ong của Chúa, sản xuất một thứ mật thiêng liêng (PVT 64-65). Bản văn đầu tiên này đã gợi lên gương mặt vĩ đại của ngôn sứ Elia mà từ hai ngàn năm còn được nhắc đến tại đây. Một tường thuật về cuộc du hành thế kỷ XIII xác nhận rằng đây là “những ẩn sĩ Latinh mà người ta gọi là tu sĩ Dòng Cát Minh” và “họ đã xây ở đó một nhà nguyện nhỏ xinh đẹp dâng kính Đức Mẹ” (PVT 65). Những công trình khai quật gần đây tại Wadi ‘ain es – Siah đã giúp tìm lại phế tích của ngôi nhà nguyện đó gần các hang động tự nhiên, nơi các ẩn sĩ sinh sống và phát hiện các di tích tu viện đầu tiên của Dòng. Sự kiện ngôi nhà nguyện đầu tiên được các tu sĩ dâng hiến cho Mẹ Thiên Chúa có nghĩa là họ đã chọn Đức Maria làm Quan Thầy, là Đấng bảo trợ Hội Dòng của họ, quyết định hoàn toàn xả thân phục vụ Người. Dòng Cát Minh đã nhìn nhận nơi Mẹ Maria và ngôn sứ Elia lý tưởng mà các thành viên của Dòng phải nhắc đến.

Cho đến đầu thế kỷ XIII, các ẩn sĩ Núi Cát Minh đã sống dựa theo truyền khẩu, có lẽ lên đến các thế kỷ đầu của  kỷ nguyên Kitô giáo và còn sống động tại nơi ở của ngôn sứ Elia mà họ đã cư trú cố định. Nhưng giữa năm 1207 và 1214, người trưởng nhóm, chưa phải là tu sĩ, được biết quý danh là “Brocardo”, đã xin thánh Alberto, Thượng Phụ Giêrusalem, một Quy Luật cho các tu sĩ để xác nhận lối sống của họ.

Ngắn gọn, quân bình, thận trọng và súc tích, có nhiều trích dẫn Thánh Kinh, đó là đặc điểm của bản Quy Luật này. Nội dung nó chú trọng đến việc “sống” hơn là “hành động”, trong tính đơn sơ của nó, đặt trọng tâm nơi Chúa, điểm phát xuất mọi sự và mọi sự đều phải quy hướng về đó, đời sống chiêm niệm không cần luật lệ phức tạp. Quy Luật tiên khởi này xoay quanh vài điểm chính yếu, hoàn toàn mang tính Tin Mừng, và có khuynh hướng tạo nên một bầu khí thuận tiện cho việc cầu nguyện liên lỷ vốn là lời dạy chính yếu của Quy Luật. Đây là vài đoạn trích dẫn:

Đồng hình đồng dạng với Đức Kitô: “Mỗi người phải sống với tư cách môn đệ Chúa Giêsu – Kitô và trung thành phục vụ Người với một tâm hồn trong sạch và một lương tâm ngay lành”.

Vâng phục Bề Trên: “Trước hết, chúng tôi truyền cho anh em là phải bầu một người trong anh em làm bề trên, với sự nhất trí của mọi người hoặc với đa số những người trung chính” – “Hỡi anh Brocardo, và bất cứ ai làm Bề Trên sau anh, hãy có luôn trong trí và tuân giữ trong việc làm những gì Chúa nói trong Tin Mừng: Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải là người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 43- 44). “Còn các anh em khác, hãy khiêm tốn tôn trọng Bề Trên của mình; nhìn nhận Đức Kitô, Đấng đã đặt người trên anh em hơn là bản thân người”.

Cầu nguyện liên lỷ: “Mỗi người hãy ở trong phòng mình hoặc gần đó, ngày đêm suy gẫm Luật Chúa (1Pr 4,7) và tỉnh thức cầu nguyện (Tv 1,2) trừ khi bận công việc khác với lý do chính đáng”.

Ổn định: “Không anh em nào được rời khỏi nơi được chỉ định cho mình hoặc đổi với một người khác, nếu không có sự đồng ý của Bề Trên đương nhiệm”.

Cô tịch: “Mỗi anh em sẽ có một tu phòng riêng biệt, theo như Bề Trên chỉ định và với sự đồng ý của các anh  em khác hoặc của phần trung chính hơn trong các anh em. Mỗi người hãy ở lại trong tu  phòng của mình hoặc gần đó”.

Thinh lặng: “Thánh tông đồ khuyên ta giữ thinh lặng… Thinh lặng là con đường dẫn đến sự thánh thiện (Is 32,17) và: trong thinh lặng và cậy trông là sức mạnh của anh em (Is 30,15). Vậy chúng tôi truyền cho anh em giữ thinh lặng sau giờ kinh Tối đến cuối kinh giờ Ba ngày hôm sau. Thời gian còn lại, mặc dù không buộc giữ thinh lặng nhặt như vậy, nhưng cần thiết phải tránh nói nhiều. Vì … năng nói năng lỗi (Cn 10,19), và kẻ nhiều lời làm tổn thương linh hồn mình (Hc 20,8), và Chúa nói trong Tin Mừng: Đến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lẽ về những điều vô ích mình đã nói (Mt 12,26). Vậy mỗi người hãy cân nhắc lời nói của mình và kìm hãm miệng lưỡi, kẻo lưỡi sẽ làm cho mình sa ngã không chỗi dậy nổi cho đến chết” (Hc 28, 29-30)

Lao động: “Tất cả những gì anh em làm thì phải làm nhân danh Chúa” (1Pr 5,8). Anh em phải kiếm việc gì mà làm để ma quỷ thấy anh em bận việc, để sự nhàn rỗi có thể mở lối cho ma quỷ xâm nhập linh hồn anh em. Về điểm này, anh em có lời dạy và gương sáng của thánh Phaolô tông đồ: “Sống giữa anh em, chúng tôi ngày đêm lao công vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em. Không phải chúng tôi không có quyền được cấp dưỡng, nhưng vì muốn nêu gương cho anh em bắt chước. Vì khi còn ở với anh em, chúng tôi đã tuyên bố rằng: Ai không muốn làm việc thì đừng ăn. Thế mà chúng tôi nghe nói, có một số người sống vô kỷ luật, ăn không ngồi rồi, chẳng làm việc gì mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giêsu – Kitô, chúng tôi truyền và khuyên những anh em ấy hãy ở yên mà làm việc để có của nuôi thân” (2Tx 3,8-12).

Đời sống chung và nghèo khó: Sẽ xây cất một nhà nguyện xứng hợp, giữa các tu phòng: Anh em sẽ tụ tập nơi đó để tham dự Thánh Lễ. Ngoài ra, chúa nhật hoặc ngày khác, nếu cần thiết, anh em sẽ thảo luận về việc tuân giữ Luật Dòng và việc cứu rỗi các linh hồn; đồng thời, với lòng bác ái, sẽ khuyên bảo những điều sai lỗi hoặc thiếu sót đã nhận thấy nơi anh em. (Trong Luật Dòng 1247 có thêm điều này: Anh em sẽ dùng bữa trong một phòng ăn chung, đồng thời nghe đọc sách Thánh, khi việc này có thể thu xếp cách thuận tiện… Anh em có thể cất nhà trong sa mạc hoặc nơi khác miễn là thích nghi với việc giữ Luật Dòng. Anh em nào biết đọc kinh Thần Vụ như các Giáo Sĩ, sẽ đọc theo Luật do các Giáo Phụ và thói quen được Giáo Hội phê chuẩn). Không ai được nói vật gì thuộc về mình, nhưng mọi sự đều là của chung (Cv 4,32) và được phân phát cho mỗi người theo nhu cầu, tuổi tác và sự cần thiết cá nhân.

Chay tịnh: “Anh em sẽ giữ chay mỗi ngày, từ lễ Suy Tôn Thập Giá đến lễ Phục Sinh, trừ các ngày Chúa Nhật, lúc bệnh hoạn hoặc kém sức khỏe hoặc có lý do chính đáng thì khỏi phải giữ chay, vì khi cần thiết thì không có luật buộc”.

Thận trọng: “Nếu có ai làm nhiều hơn điều buộc phải làm, thì sẽ được Chúa ban thưởng trong ngày quang lâm. Nhưng hãy giữ sự thận trọng, vì nó điều hành cách nhân đức”.

Một Sắc Lệnh của Đức Giáo Hoàng Gregorio IX, ngày 6.3.1229, thay đổi Luật Dòng lần thứ nhất. Không những mỗi tu sĩ phải giữ đức khó nghèo, mà còn chung cho cả cộng đoàn, các cộng đoàn chỉ có thể có của chung cho tu viện của mình thôi, và tùy theo nhu cầu, được nuôi lừa hoặc la, và ít gia súc hoặc gia cầm để làm thức ăn.

Chúng ta ít biết về sự phát triển của các tu sĩ Cát Minh tại Thánh Địa. Tuy nhiên, tin chắc rằng, họ đã ở Tyr năm 1254 và Saint – Jean – d’Acre năm 1261.

2/ Dòng Cát Minh ở Tây Phương. Thích nghi Luật Dòng

Vào cuối thập niên thứ ba của thế kỷ XIII, tình hình chính trị ở Palestine trở nên nghiêm trọng. Những cuộc xâm nhập của người Hồi giáo ngày thêm đe dọa. Lúc đó, nhiều ẩn sĩ Núi Cát Minh “không phải không đau khổ nhiều trong tinh thần”, đã quyết định lên thuyền trở về quê quán của họ, chính vì thế mà những cuộc di chuyển bắt đầu, Dòng được thiết lập dần ở Tây Phương.

Có thể việc lập dòng đầu tiên ở Châu Âu được thể hiện vào năm 1235 tại Valenciennes, nơi mà Pierre de Corbie và bạn đồng hành của người được các thẩm phán thành phố cho phép lập Tu Viện và một nhà thờ trong khu phố những người thợ thuộc da. Vào những ngày tháng không chắc chắn, dân cư ở đảo Chypre đã lập một tu viện trên đảo của họ tại Fortamia; những người ở Silice định cư tại Messine và những người xứ Provence, tại Aygalades gần thành phố Marseille. Những hiệp sĩ Anh quốc đưa vài tu sĩ Cát Minh về nước họ, dưới sự hướng dẫn của Ralph và Fryston. Chính vì thế mà hai tu viện được thành lập năm 1242, một tại Hulne, dưới sự khuyến khích của William de Vescy, và tu viện kia tại Aylesford theo sáng kiến của Richard Grey. Vào giữa thế kỷ XIII, những tu sĩ từ Sicile đến Toscane và lập một nhà của Dòng tại Pise: những nhà khác nối tiếp tại Sienne và Florence. Ngay từ trước năm 1256, tu viện Đức đầu tiên được xây dựng tại Cologne, có lẽ do Anh quốc. Năm 1254, thánh Louis, được cha Bề Trên ở Núi Cát Minh cho sáu tu sĩ theo người đến Paris. Theo Joinville, “nhà vua cung cấp và mua cho họ một nơi tại Seinne devers Charenton, và xây cho họ một ngôi nhà”.

Tại Palestine, tình hình các tu sĩ Cát Minh ngày càng tuyệt vọng. Tu viện Núi Cát Minh sống sót đến năm 1291, thời kỳ người Hồi giáo buộc người Latinh rời khỏi Thánh Địa. Tỉnh Dòng Thánh Địa vẫn tồn tại ở đảo Chypre.

Việc đưa Dòng Cát Minh vào định cư tại Châu Âu thật khó khăn, vì Dòng không được nhìn nhận như Dòng Đan Tu cũng không phải như Dòng Hành Khất, người ta không hiểu đời sống các tu sĩ Cát Minh và người ta nghi kỵ Dòng này. Chẳng bao lâu, ai cũng thấy rõ cần phải thích nghi cơ cấu với hoàn cảnh bên ngoài nếu Dòng muốn tồn tại ờ Châu Âu.

Tổng Tu Nghị đầu tiên được triệu tập tại Aylesford, Anh Quốc, có lẽ vào năm 1247. Quyết định quan trọng nhất của Tu Nghị này là phái các tu sĩ Réginald và Pierre diện kiến Đức Giáo Hoàng Innocent IV, khi ấy Ngài đang ở Lyon, để xin Ngài thích nghi Luật Dòng sao cho hoạt động tông đồ có chỗ đứng trong đời sống của họ. Đức Giáo Hoàng giao cho hai cha Dòng Đaminh, Đức Hồng Y Hugues de Saint Cher và Guillaume, Giám Mục Tartous, soạn lại và giảm nhẹ luật Dòng Cát Minh. Đây là những thay đổi bản Luật Dòng sơ khởi: Thêm lời khấn khó nghèo, khiết tịnh vào lời khấn vâng phục: cũng được phép lập tu viện trong các thành phố; nhấn mạnh đời sống chung (cử hành, không những Thánh Lễ mà cả các giờ kinh phụng vụ; dùng bữa trong một phòng ăn chung; giảm bớt giờ thinh lặng như luật buộc; giảm nhẹ việc ăn chay kiêng thịt  đối với các anh em đi đường). Các luật giảm chế này được Đức Giáo Hoàng Innocent IV công bố ngày 1.10.1247. Người còn ban các đặc ân khác cho các tu sĩ Cát Minh; năm trước đó, Ngài đã cho họ những bức thư giới thiệu với các Giám Mục.

Ai làm Bề Trên Tổng Quyền của Dòng vào giờ phút quyết định này cho sự phát triển của Dòng ? Ai hiểu rõ những đòi hỏi của thời thế ? Các bản văn cũ của Dòng Cát Minh đã đề cao thánh Simon Stock, người Anh, nhưng việc khám phá gần đây, một tài liệu đã bác bỏ lập luận này. Lịch sử và niên đại ký các Bề trên Tổng Quyền đầu tiên đáng nghi ngờ. Đây là những gì có thể nói được một cách hơi chắc chắn.

Sau Brocardo, Bề Trên đầu tiên các ẩn sĩ Núi Cát Minh, ta có thể xem như chắc chắn các tên Godefroy và Simon Stock, và có lẽ Alain le Breton. Godefroy giữ chức Bề Trên Tổng Quyền năm 1249 và như vậy người được bầu từ năm 1247. Thật có lý mà cho rằng Alain le Breton đã kế vị người. Người ta đã biết chính xác rằng Simon Stock làm Bề Trên sau Nicolas người Pháp và đã qua đời tại Bordeaux ngày 16.5.1265, có thể làm Bề Trên Tổng Quyền sau Alain. Vấn đề mà Gérard de Fracher, dòng Đaminh có nhắc đến khoảng năm 1260: Một tu sĩ Simon nào đó, Bề Trên Dòng Cát Minh, con người đạo đức và chân thật, có thể củng cố lập luận này. Với Nicolas người Pháp, làm Bề Trên Tổng Quyền từ năm 1266 đến 1271, thì các niên hiệu được nhận thực chắc chắn. Người kế vị là Ralph de Fryston người Anh, điều khiển Dòng từ 1271 đến 1277.

Tu nghị Aylesford đã bắt đầu điều chỉnh việc quản trị các tu viện và Tỉnh Dòng. Lúc đó có lẽ có bốn Tỉnh Dòng: Thánh địa, Sicile, Anh Quốc và xứ Provence. Cũng có vấn đề quy định chuẩn mực đời sống chung. Hiến Chương đầu tiên còn giữ lại có ghi ngày tháng của Tổng Tu Nghị họp tại Londres năm 1281. Hiến Chương này đã nhắc đến mười Tỉnh Dòng: Thánh Địa, Sicile, Anh Quốc, xứ Provence, Toscane, Lombardie, France,Allemagne, Aquitaine, Espagne.

Sau tu nghị Aylesford, Dòng Cát Minh đã theo một hướng mới. Nhưng hoạt động tông đồ không được làm cho Dòng phủ nhận nguồn gốc chiêm niệm của mình. Nicolas người Pháp lãnh nhiệm vụ nhắc nhở cho anh em, trong tác phẩm rất nồng nhiệt của người: “Tên Lửa”, vẻ đẹp của đời sống ẩn tu. “Tất cả các thọ tạo mà chúng ta nhìn thấy và nghe thấy trong sa mạc, mang lại cho chúng ta sự tươi mát và an ủi… Dù thinh lặng, chúng rao giảng cách tuyệt vời và thúc giục con người nội tâm chúng ta ca ngợi Đấng Tạo Hóa”. Nếu phản ứng này chính đáng để duy trì thế quân bình giữa hai khuynh hướng chiêm niệm và tông đồ. Tuy nhiên, cần đặt lại vấn đề về chính sự hiện hữu của Dòng. Nỗi hoang mang kéo dài cho đến khi Đức Giáo Hoàng Boniface VIII dứt khoát phê chuẩn Luật Dòng ngày 5.5.1298: “Chúng tôi muốn tu sĩ Cát Minh cương quyết duy trì ơn gọi của họ”. Về mặt pháp lý, các tu sĩ Cát Minh được đồng hóa với các tu sĩ Dòng Hành Khất từ năm 1247, nhưng không có được những đặc quyền như các tu sĩ Đaminh và Phanxicô. Đức Giáo Hoàng Jean XXII đã ban các đặc quyền này cho họ vào thế kỷ XIV.

3/ Thần học gia và các nhà nhân văn.

Từ khi Dòng Cát Minh hướng về đời sống hoạt động tông đồ thì vấn đề huấn luyện nghiêm túc về thần học cho các giáo sĩ tương lai được đặt ra. Nicolas người Pháp có những lời nghiêm khắc để đả kích sự dốt nát của anh em mình, những người “mù chữ mà dám nói ba hoa trước mặt dân chúng như thể đã thông suốt tất cả thần học rồi vậy”. Nhất là từ Tu Nghị Luân Đôn năm 1281, đến lượt các tu sĩ Cát Minh đi vào phong trào đại học, đã phát triển từ đầu thế kỷ XIII. Năm 1324, Dòng đã có chín học viện trung ương: Paris (Tu viện công trường Maubert), Toulouse, Florence, Montpellier, Bologne, Cologne, Londres và Avignon; các học viện Oxford và Cambridge theo một quy chế đặc biệt.

Dòng Cát Minh có vài tiến sĩ vĩ đại như Gérard de Bologne, Guy de Perpignan (- 1342) và Jean Baconthorpe họp thành trường phái Paris Dòng Cát Minh thế kỷ XIV. Baconthorpe là người đầu tiên của Dòng Cát Minh bênh vực tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Anh Quốc, John Cunningham là người đầu tiên tranh luận về John Wiclef, tiền phong xa của Luther đã nương náu bên cạnh Jean Hus. Cũng là người Anh, Thomas Netter de Walden, được gọi là Waldensis (- 1431) mà người ta gọi là “thần học gia vĩ đại duy nhất của thế kỷ XV”, đã tham gia các Công Đồng Pise và Constance.

Chúng ta cũng tìm thấy trong Dòng vài văn sĩ có phẩm chất như Sibert de Béka (1332), đồng thời chuyên về phụng vụ. Người đã viết trong Quodlibet, tác phẩm của người: “Đời sống chiêm niệm kết thúc trong lòng mến trọn hảo… Chỉ mình sự hiểu biết mới có giá trị, một sự hiểu biết dịu ngọt về Thiên Chúa…” Philip Ribot, vào cuối thế kỷ XIV, là tác giả “Mười quyển sách bàn về nguồn gốc tu sĩ Dòng Cát Minh và vai trò chính yếu của họ”, được gán cho những nhân vật vĩ đại của quá khứ. Cùng với người, Jean de Cheminot, tu sĩ Cát Minh ở Metz và giáo sư ở Paris năm 1336, Jean de Hildesheim (+ 1375) và Jean Grossi (+1437) là những sử gia đầu tiên của Dòng Cát Minh. Chúng tôi xin phép kể nơi đây, bên cạnh những nhân vật thông thái này, một nghệ sĩ: Fra Filippo (+ 1469), tu sĩ Cát Minh ở Plorence, một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất thế kỷ XIV Ý, cuộc đời của người không nêu gương tốt lắm, nhưng qua nghệ thuật của mình, người đã làm vinh dự cho Dòng.

Ngay cuối thế kỷ XV, các tu sĩ Cát Minh cũng tham gia phong trào văn học. Trong số đông đảo nhà văn của phong trào này, chúng tôi chỉ nêu hai vị quan trọng nhất: Arnold Bostius (1445-1499), bạn thân của Erasme, người đã dành phần lớn sự nghiệp của mình cho Đức Mẹ. Chân phước Baptiste Spagnoli de Mantoue (1447-1516), là một trong những nhà văn lừng danh nhất thời đại của người. Nhưng rườm rà hơn là sâu sắc, người nhanh chóng bị quên lãng.

Vào thời cải cách của Luther và Anh giáo, nếu có nhiều người bỏ Giáo Hội – sử gia Anh, John Bale chẳng hạn – một số tu sĩ Cát Minh tỏ ra là những người can đảm bênh vực Giáo Hội. Cũng thế, vị tiến sĩ thông thái ở Cologne, Eberhard Billick, người anh em cùng Dòng, Alexandre Blanckart, và vị Giám Tỉnh Dòng Cát Minh áp cuối, tại Đan Mạch là Paul Helie, đã dịch cả bộ Thánh Kinh sang tiếng Đức.

4/ Suy thoái và giảm chế

Sau khi đi ra ngoài đề khá xa, chúng ta hãy trở lại với lịch sử chính thức của Dòng Cát Minh.

Năm 1347, bệnh dịch hạch xuất hiện tại Châu Âu đã lấy đi một phần ba dân số và trận chiến Một Trăm Năm đã gây nên lầm than, đói kém và đồi bại luân lý. Hơn nữa, vào cuối thế kỷ XIV, thế giới Kitô giáo bị cuộc ly giáo Tây Phương xâu xé. Hậu quả của những biến cố này gây cho đời tu một tai hại vô lường và Dòng Cát Minh cũng không tránh khỏi. Luật Dòng không được giữ nghiêm túc và cuộc ly giáo gây chia rẽ trong Dòng, người thì theo Đức Giáo Hoàng ở Rome, kẻ thì theo Đức Giáo Hoàng ở Avignon. Năm 1414, Tổng Tu Nghị Bologne tái lập sự hiệp nhất và Jean Grossi được bầu làm Bề Trên Tổng Quyền toàn Dòng Cát Minh. Người tìm cách chống lại sự lạm dụng, nhưng không có kết quả bao nhiêu. Nguyên nhân sa sút của Dòng do từ bên trong. Những bằng cấp đại học có thể do các Bề Trên Tổng Quyền phát cho những người không theo các môn học. Chức tước và bổng lộc thuộc hàng giáo sĩ được Tòa Thánh ban được mua chuộc dễ dàng. Chẳng lạ gì khi những người bất xứng đấu tranh để được, vì các đặc quyền thái quá kèm theo các chức tước đó. Những “kẻ ngu dốt có bằng cấp đó” – theo lời một tác giả biên niên sử ở Toulouse – và những người có chức tước đó, cả đến Giám Mục thực thụ không ra gì đó đã tránh né vâng lời các Bề Trên chính thức. Đức khó nghèo không được tuân giữ mấy. Tiền lễ, công giảng dạy giữ cho mình là chuyện thường. Năm 1362, người ta chấp nhận cho các tu sĩ tự quản lý số tiền do gia đình họ trợ cấp. Bởi đó, người thì sống sang trọng, kẻ lâm cảnh thiếu thốn. Phong tục đồi bại và đời tu buông thả. Và điều tệ hại nhất là việc mua chức vụ trong Dòng, nơi mà thường nhiều kẻ bất xứng được cai quản.

Ngày 3.6.1430, một Tổng Tu Nghị khai mạc tại Nantes. Việc bầu Bề Trên Tổng Quyền mới gặp chống đối nên Đức Giáo Hoàng Eugène IV đã đặt Giám Mục Marseille và bổ nhiệm Natale Bencesi ở Venise làm Tổng Đại Diện Dòng. Lễ Hiện Xuống năm sau, công hội các tu sĩ Cát Minh họp tại Ravensburg, tại đó, Jean Faci đã chấp nhận giữ chức Tổng Quyền. Tại Tu Nghị Nantes, đã có quyết định xin Đức Giáo Hoàng giảm nhẹ Luật Dòng một lần nữa, Luật Dòng mà nhiều khấn sinh xét là quá nghiêm nhặt. Đức Giáo Hoàng Eugène IV trả lời qua Sắc Lệnh Romani Pontificis năm 1435 gởi Bề Trên Tổng Quyền Jean Faci. Sắc Lệnh này cho phép các tu sĩ Cát Minh ăn thịt mỗi tuần ba lần, trừ những ngày kiêng thịt và có những giờ giải trí chung. Những thay đổi này, thực ra chỉ liên quan đến những điểm phụ thôi, tuy nhiên, cũng cho thấy có sự giảm sút về sức sống thiêng liêng của Dòng.

Tất cả những điều nói trên đây không loại trừ sự hiện diện của những phần tử nhiệt thành. Một số Bề Trên đã làm mọi cách để duy trì việc giữ Luật Dòng trong tu viện hoặc  Tỉnh Dòng của các ngài, dẫn đến những phong trào cải cách được phát triển.

5/ Những cuộc cải cách ở Mantoue, Albi và Montolivet

Ngay trước khi Sắc Lệnh Romani Pontificis được công bố, đã có những phản ứng chống lại sự buông thả chung trong Dòng. Phong trào cải cách đúng đắn đầu tiên là phong trào ở Mantoue. Tu viện Santa Maria delle Selve gần Florence đã theo Luật nhặt từ năm 1413. Các Bề Trên của tu viện này, trong số đó có chân phước Ange Mazzinghi, theo tiểu sử, người qua đời ở Florence, “sống thánh thiện và là một vị giảng thuyết trứ danh”, đã duy trì được lòng sốt sắng.

Nhờ Thomas Connecte, một tu sĩ Cát Minh xứ Bretagne và đồng bạn của người, mà tu viện Cát Minh ở Mantoue có một đời sống sốt sắng. Năm 1425, Thomas đã lập một tu viện Cát Minh tại Géronde gần Sierre ở Thuỵ Sĩ, với luật lệ nghiêm nhặt. Chứng thư lập dòng có ghi rằng các tu sĩ phải chuyên cần giữ luật, vâng phục, từ bỏ của cải hoàn toàn, ăn chay kiêng thịt và giữ thinh lặng những giờ và những nơi chốn được quy định. Thomas không chịu dừng lại tại đó mà còn muốn cải tạo Đức Giáo Hoàng và Hồng Y đoàn nữa. vậy nên người đã đi Roma. Nhưng vì người quá nặng lời và tư do chống lại Đức Giáo Hoàng và Hồng Y đoàn, nên người ta cho rằng người lạc đạo và thiêu sống người vào cuối năm 1453. Nhiều đồng bạn tiếp tục sự nghiệp của người tại Géronde, và từ 1440, tại Mantoue. Năm sau, những tu sĩ ở Mantoue đến thăm tu viện Santa Maria delle Selve, và các anh em ở Géronde đến đó vào Chúa Nhật I Mùa Vọng. Từ những cuộc gặp gỡ này, nẩy sinh sự thống nhất ba tu viện cải tổ, không chấp nhận việc giảm chế, được Đức Giáo Hoàng Egène IV thành lập thành một Hội Dòng tách rời, do một Tổng Đại Diện cai quản và chỉ phục tùng Bề Trên Tổng Quyền của Dòng thôi. Hội Dòng này tồn tại được ba thế kỷ. Năm 1783, Đức Giáo Hoàng Piô VI sáp nhập vĩnh viễn Hội Dòng này vào Dòng các tu sĩ Cát Minh từ lâu đã theo Luật Dòng nguyên thủy.

Một phong trào cải cách khác phát sinh tại Pháp vào cuối thế kỷ XV. Hội Dòng ở Albi đã bắt đầu một cuộc đảo chính thực sự. Louis d’Amboise, Giám Mục thành phố này, vào năm 1499, muốn cải tổ tu viện Dòng Cát Minh, nên Ngài mời tất cả các tu sĩ đến dùng bữa tại Tòa Giám Mục, trong lúc đó, Ngài cho hai mươi hai sinh viên của đại học Paris ở Montaigu, những người này phải đến chiếm chỗ trong tu viện. Elie Denys và hai tu sĩ giữ luật nhặt tại Gand đến khai tâm các tập sinh trên đây giữ luật nghiêm nhặt, như đã thực hiện tại Hội Dòng ở Mantoue. Đối với các tu sĩ của tu viện trước đây, họ có thể chọn theo cuộc cải cách hoặc ra đi. Nhiều tu viện khác tại Pháp, trong đó có tu viện ở Mellun và Rouen, cũng như Học Viện ở quảng trường Maubert tại Paris, cũng theo cuộc cải cách của Albi, họp thành một Hội Dòng tách rời, dưới quyền Bề Trên Tổng Quyền của Dòng, theo lệnh Đức Giáo Hoàng Lêo X, năm 1513. Hội Dòng này tồn tại đúng một trăm năm thì bị những cuộc chiến tranh tôn giáo tàn phá gần hết, nên Đức Giáo Hoàng Clement VIII đã giải tán Dòng năm 1599.

Một cố gắng cải cách nữa được thể hiện gần thành phố Gênes, do cha Hugues Marengo thành lập năm 1516, tu viện Montolivet “giữ luật nhặt và sống ẩn tu, theo Luật Dòng tiên khởi”, trực tiếp dưới quyền Bề Trên Tổng Quyền, tu viện đã tồn tại đến cuối thế kỷ. Năm 1599, Đức Giáo Hoàng Clement VIII đã sát nhập tu viện này vào Tỉnh Dòng Lombadie.

6/ Vị Bề Trên Tổng Quyền Cải Tổ vĩ đại

Song song với những cuộc cải cách có khuynh hướng tách rời, những vị Bề Trên Tổng Quyền lỗi lạc đã tìm cách đưa toàn Dòng trở về với việc giữ luật nhặt. Dòng Cát Minh đã thực sự vươn lên từ năm 1451 nhờ nhiệm kỳ Bề Trên Tổng Quyền của chân phước Jean Soreth. Ngay trong Tổng Tu Nghị bầu người, người đã công bố sắc lệnh đầu tiên, chống lại các đặc quyền và miễn xá, nguyên nhân chính gây sa sút trong Dòng. Sau khi đã ổn định tỉnh Dòng ở Đức, người viếng thăm các tu viện cải tổ ở Moers và Enghien, mà người tán thành việc giữ luật năm 1452. Đời tu nhặt nhiệm tại hai tu viện này cung cấp cơ sở cho việc cải cách của người. Nhân dịp Tổng Tu Nghị họp tại Paris năm 1456, Bề Trên Tổng Quyền này soạn thảo quy chế cho các tu viện cải tổ. Họ có quyền bầu Bề Trên của mình: giảm bớt hoạt động các tu sĩ và họ phải từ bỏ mọi sở hữu và mọi đặc quyền cho dù hợp pháp. Đối với toàn Dòng, cha Jean Soreth soạn thảo Hiến Pháp mới, khác biệt và đòi hỏi hơn Hiến Pháp 1362. Người nhấn mạnh các giá trị cơ bản của Luật Dòng, mặc dù không buộc mọi người giữ luật nhặt dành cho các nhà được cải tổ.

Ngay cả việc canh tân rộng rãi hơn cho toàn Dòng, cũng không được dễ dàng chấp nhận ở khắp nơi. Nhiều tu sĩ rời bỏ Dòng Cát Minh, những người khác, chẳng hạn, các tu sĩ học viện Trung Ương ở Cologne nổi loạn, buộc Bề Trên Tổng Quyền phải nghiêm trị. Không nghỉ ngơi, cha Jean Soreth viếng thăm các tu viện và các Tỉnh Dòng khắp Châu Âu, thường là đi bộ, nên người bị rám nắng như một người Ethiopie, trở nên trò cười cho những người xấu nết, theo lời sử gia của cha kể. Cha cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc sáng lập Dòng Nữ Cát Minh và Dòng Ba, như chúng ta sẽ thấy sau này. Cha Jean Soreth qua đời tại Angers năm 1471.

Các người trực tiếp kế nhiệm vị Bề Trên Tổng Quyền vĩ đại này không tiếp tục công việc của người. Họ tha hồ phân phát đặc quyền và miễn xá cùng chức tước, nhất là Christophe Martignoli (1471-1481), đã dùng tiền mua chuộc Sắc Lệnh của Đức Giáo Hoàng Sixte V, có tên là Grande Mer (Đại Dương), áp dụng cho Dòng Cát Minh tất cả đặc ân miễn xá dành cho các Dòng Hành Khất khác.

Đó là tình trạng Dòng Cát Minh khi, vào năm 1523, Nicolas Audet (1481-1562), một người ở đảo Chypre, gốc Pháp, được Đức Giáo Hoàng Adrien IV bổ nhiệm làm Tổng Đại Diện. Với cá tính mạnh mẽ, tổ chức sáng suốt, người biết liên kết một sự kiên trì sắt đá với lòng nhân từ của một người cha và nhiều thận trọng. Được báo trước rằng người sẽ được bầu làm Bề Trên Tổng Quyền trong Tu Nghị sắp tới của Dòng Cát Minh. Cha Audet thiết lập ngay chương trình cải cách và sẽ công bố trong Isagogicon của người. trong đó người mô tả dưới những màu sắt ảm đạm nhất tình trạng thê thảm của Dòng, và đề ra những phương cách sửa chữa. Đắc cử Bề Trên Tổng Quyền ngày 8.5.1524, cha Audet đưa cho các thành viên Tổng Tu Nghị phê chuẩn Hiến Pháp mới người đã soạn, lấy Hiến Pháp của cha Jean Soreth soạn làm nền tảng, và người thêm vào những phần Isagogicon của người. Người làm cho việc giữ đức khó nghèo và đời sống chung nhiệm nhặt hơn nữa, nhấn mạnh trên một sự thu nhận chí lý ơn gọi và tổ chức lại việc huấn luyện đời tu và tri thức cho họ. Người đặc biệt nhắm vào việc trả lại cho con cái người một ý thức linh thánh; cách riêng, việc thích nghi phụng vụ. Bốn mươi năm làm Bề Trên Tổng Quyền, người không thiếu thử thách, cha Audet phải chiến đấu bảy năm trời với một tên phản loạn, Etienne Jeannesi, tự cho mình quyền triệu tập một Tu Nghị tại Montpellier, nơi ông tự bầu mình làm Bề Trên Tổng Quyền, coi thường mọi quyền bính, ngay cả quyền của Đức Giáo Hoàng nữa. Những cuộc cải cách Tin Lành và Anh Giáo đã phá hủy sáu Tỉnh Dòng thịnh vượng của Dòng Cát Minh, với khoảng một trăm hai mươi tu viện. Bản báo cáo của cha Nicolas Audet về tình trạng của Dòng hoàn tất năm 1557, đề cập đến hai mươi bốn Tỉnh Dòng, trong đó có năm Tỉnh Dòng hoàn toàn tuân giữ luật nhặt: Đức, Pháp, Narbonne, Castile và Portugal. Sau khi đã tham gia tích cực vào Công đồng Trente, vị Bề Trên Tổng Quyền xuất sắc này qua đời vào đầu tháng 12.1562. khi còn sống, có lẽ người không hay biết gì về việc thánh Têrêsa đã thiết lập tại Avila, Đan Viện đầu tiên các nữ đan sĩ Cát Minh Cải Tổ.

Ngày 16.12, Đức Giáo Hoàng Pie IV bổ nhiệm cha Jean Baptiste Rossi (Rubeo) ở Ravenne làm Tổng Đại Diện. Tại Tổng Tu Nghị ở Rome năm 1564, hầu như mọi người bầu người làm Bề Trên Tổng Quyền. Cha Rubeo dành phần còn lại của đời mình để đưa vào Dòng Cát Minh các Sắc Lệnh của Công đồng Trente. Cha tân Bề Trên Tổng Quyền là một nhân vật nổi bật. Với những đức tính nhân bản cao cả – trí thông minh xuất chúng, thẳng thắn, khôn ngoan và quân bình, cương nghị kèm theo lòng nhân từ. Những nhân đức tu trì vững chắc ấy liên kết với một nền huấn luyện thần học vững chắc. Nơi người, con người hoạt động đi đôi với một con người chiêm niệm thực sự.

Năm 1566, cha tân Bề Trên Tổng Quyền lên đường để thực hiện công cuộc cải tổ của người. Vua Philip II đã xin Tòa Thánh và cha Rubeo bổ nhiệm một vị tổng đại diện Tây Ban Nha để lo việc cải tổ Dòng Cát Minh tại đây, nhưng cha Rubeo muốn đích thân đến tận nơi, khi đi ngang qua Gênes. Ngày 12.4.1567, người đến Avila, nơi đây người gặp thánh Têrêsa; người tán thành công việc của thánh nữ. Hai nhân vật vĩ đại này đã hiểu nhau và mến nhau ngay. Cuộc viếng thăm của cha Tổng Quyền ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha rất thành công trong tất cả các Tỉnh Dòng, trừ Tỉnh Dòng Andalousie. Sau đó, cha Rubeo giao cho một vị đại diện viếng thăm các Tỉnh Dòng Pháp và người đích thân thăm các Tỉnh Dòng Ý. Lẽ ra, vào lễ Hiện Xuống 1572 có một Tổng Tu Nghị tại Paris. Nhưng các cuộc chiến tranh tôn giáo tàn phá bảy Tỉnh Dòng và những khó khăn với các Tỉnh Dòng ở Tây Ban Nha buộc cha Tổng Quyền phải hoãn lại, ba năm sau họp tại Plaisance. Trong Tu Nghị này người ta bàn về Hội Dòng Mantoue và những vấn đề giữa các tu sĩ Cát Minh và Hội Dòng. Cha Rubeo tỏ ra nghiêm khắc với con cái thánh Têrêsa, trong tình thế này đã dùng quyền xét xử và bỏ qua lệnh cấm lập Dòng tại Andalousie. Cha Tổng Quyền tiếp tục kinh lược các cộng đoàn nước Ý. Kiệt sức, người trở về Rome năm 1577 và phó linh hồn cho Chúa tại đó ngày 5.9.1578.

7/ Nữ đan sĩ Dòng Cát Minh

Thật khá hiển nhiên để nhận thấy rằng sau hơn hai thế kỷ đi vào lịch sử, Dòng Cát Minh mới tiếp nhận những nữ đan sĩ. Dầu vậy, Dòng Nhì Cát Minh đã phát triển nhanh chóng, nhất là sau cuộc cải tổ của Mẹ Thánh Têrêsa. Tổng số nữ tu chiêm niệm mà Giáo Hội thống kê tính đến nay, thì nữ đan sĩ Cát Minh đông số nhất.

Thật ra, ngay từ thời Trung Cổ, đã có những người nữ sống tinh thần Cát Minh rồi. Ở Pháp, Anh vàxứ Flandre, các bà tu kín, mà điển hình là chân phước Jeanne de Toulouse, đã được các tu sĩ Cát Minh hướng dẫn thiêng liêng. Họ được mặc áo Dòng Cát Minh nhưng không có áo Đức Mẹ, và họ giữ Luật Dòng các cha Cát Minh. Những phụ nữ đạo đức khác ở ngoài đời, sống tận hiến cho Thiên Chúa dưới sự hướng dẫn của các tu sĩ Cát Minh, riêng rẽ hoặc họp thành cộng đoàn nhỏ: Các “humiliates” tại Lombardie, những “mantellates” hoặc “Pinzocchere” tại Ý, các “béates” ở Tây Ban Nha và các “béguines” tại Hà Lan. Một cộng đoàn nữ ở Venise từ năm 1300 đã thuộc Bề Trên Tổng Quyền Gérard de Bologne, được hưởng “các ân phúc thiêng liêng của Dòng”. Những phụ nữ khác, theo tục lệ thời Trung Cổ, được liên kết với Dòng Cát Minh bởi việc khấn Dòng với tư cách trợ sĩ liên kết với tu viện của các cha nhưng nhà ở khu vực riêng.

Vậy Dòng Cát Minh đã có những phụ nữ tận hiến, nhưng không có nữ đan sĩ. Năm 1450, cha Giám Tỉnh Toscane và cha Bề Trên miền Florence đã thể hiện bước đầu hướng về Dòng Nhì. Hai vị xây trong thành phố này tu viện đầu tiên các Pinzocchere, từ đó phát xuất tu viện Sainte Marie des Anges. Cha Bề Trên ở Florence mạo hiểm đi Rome để xin Đức Giáo Hoàng Nicolas V một văn kiện cho phép nhận những nữ tu này vào Dòng Cát Minh. Đức Giáo Hoàng đã ban Sắc Lệnh Cum Nulla ngày 5.10.1450. Từ nay, các tu sĩ Dòng Cát Minh có thể nhận vào Hội Dòng của họ “những trinh nữ đạo đức, quả phụ, béguines, mantellates và các phụ nữ đạo đức khác, họ mặc tu phục và sống dưới sự bảo trợ của Dòng Đức Nữ Trinh Maria Núi Cát Minh”. Nhưng các nữ tu thuộc tu viện ở Florence chưa phải là nữ đan sĩ: đến thế kỷ XVI, họ mới chấp nhận luật nội vi.

Một giai đoạn mới để nhánh nữ Dòng Cát Minh tự quyết định nhân dịp Hồng Y de Cues đi kinh lược các tu viện ở Đức và Hà Lan năm 1451. Người ra lệnh các cộng đoàn nữ không có Luật Dòng rõ rệt phải sát nhập với một tu hội đã hiện hữu. Khi Tổng Tu Nghị Dòng Cát Minh họp tại Cologne vào tháng 5.1452, một cộng đoàn béguines ở Gueldre, Ten Elsen, xin cha Tổng Quyền Jean Soreth cho sát nhập với Dòng. Người trả lời quả quyết qua thư đề ngày 10.5 năm đó. Nhưng chỉ qua bức thư ngày 14.10.1453 gởi các cựu béguines ở Gueldre, cha Soreth mới chính thức nhận họ vào trong Dòng, theo Sắc Lệnh Cum Nulla, đồng thời cho họ những hướng dẫn chi tiết về đời tu của họ, mà nay đã thất lạc. Chính vì thế mà họ đã trở thành những nữ Cát Minh đầu tiên. Ngày 15.8.1455, cha Bề Trên Tổng Quyền nhận vào Dòng Cát Minh những “nữ tu kín” ở Nieuwkerk. Người cho Đan Viện thứ hai này một “phong cách” sống thực sự đặt nền tảng trên Hiến Pháp các cha Dòng Cát Minh trong tư cách thích nghi với đời tu của nữ đan sĩ. Ta cũng thấy rằng các nữ đan sĩ Cát Minh này đã giữ nội vi nhặt rồi, ngoại trừ vài “nữ tu ở nhà ngoài”, phải lo việc tiếp tế. Các chỉ thị của cha Jean Soreth sẽ dùng làm nền tảng cho tất cả công việc lập Dòng Nữ Đan Sĩ. Vì lý do đó, ta có thể phần nào xem người như “vị sáng lập” các Dòng Nữ Cát Minh.

Cha Jean Soreth đích thân lo cho các nhà được thành lập tại Hà Lan và xứ Bretagne. Các Đan Viện đầu tiên ở Hà Lan lập thêm nhiều Đan Viện khác nữa vào giữa những năm 1455 – 1469 gồm: Dinant, Liège, Haarlem, Huy, Namur, Vilvoorde. Về sau, cha Tổng Quyền soạn Hiến Pháp đầy đủ cho các Đan Viện rất sốt sắng này, nơi mà lời khấn khó nghèo và đời sống chung được tuân giữ rất hoàn hảo.

Ở Bretagne, chân phước FranVoise d’Amboise, cùng với cha Jean Soreth, đồng sáng lập Dòng Nữ Cát Minh. Sau cái chết của chồng, được gặp cha Tổng Quyền, bà quyết định xin lập một Đan Viện tại Vannes. Nhờ có chín nữ đan sĩ từ Liège đến, dự án lập Dòng được Đức Giáo Hoàng Piô II phê chuẩn, được thực hiện ngày 1.2.1464 bằng việc long trọng sở hữu Đan Viện Trois – Maries tại Bondon, nơi đây, bốn năm sau, bà FranVoise được lãnh tu phục. Lãnh trách nhiệm Bề Trên, bà lập Đan Viện “des Couets” ở Nantes. Có lẽ Cha Jean Soreth đã cho các nữ đan sĩ Cát Minh xứ Bretagne Hiến Pháp được soạn thảo cho các nữ đan sĩ ở Hà Lan. Từ bản văn ý vị này, đã được soạn lại lúc bà FranVoise d’Amboise còn sống và theo chỉ dẫn của bà, vài nguyên bản còn đến tay chúng ta hôm nay. Mục đích của đời sống các nữ đan sĩ Cát Minh được diễn tả trong bản văn ấy như sau: “Hiểu biết Thiên Chúa và phụng sự Ngài và cầu xin Ngài cho phần rỗi của thế giới”.

Ở Ý, các nữ Đan Viện Cát Minh phát triển mà không có sự cộng tác trực tiếp của cha Jean Soreth. Sau tu viện Sainte – Marie des Anges, nơi mà – vào thế kỷ XV, Marie Madeleine de Pazzi vào tu – có một  nhà thứ hai được thành lập tại Florence, về sau, trở thành Đan Viện của Nunziatina.

Trong Hội Dòng Mantoue, nhiều nữ Đan Viện Cát Minh được thành lập vào cuối thế kỷ XV. Đan Viện đầu tiên ở Parme (1465), nơi mà chân phước Archangèle Girlani đã sống. Khoảng năm 1481, cha Thomas Caravaggio, Bề Trên các cha Dòng Cát Minh cùng thành phố ấy đã viết cho các nữ đan sĩ Hiến Pháp chép y như Hiến Pháp cha Jean Soerth đã soạn cho các tu sĩ. Năm sau, những Đan Viện khác được thành lập tại Ferrare và Brescia. Đan Viện Reggio- Emilia do chân phước Jeanne Scopelli sáng lập, một tâm hồn rất kính mến Đức Mẹ. Năm 1492, chân phước Archangèle Girlani “tên và lối sống thật giống tổng lãnh thiên thần”, theo lời một sử gia, sáng lập tại Mantoue, Đan Viện Sainte Marie du Paradis.

Tại Tây Ban Nha, lần đầu tiên, năm 1346, người ta nhắc đến các béates được các cha Dòng Cát Minh hướng dẫn. Nhưng họ không sống cộng đoàn. Vào hậu bán thế kỷ XV, nhưng tu viện nữ được thành lập và được sát nhập vào Dòng Cát Minh, nhất là ở Andalousie. Tu viện đầu tiên là tu viện Ecija (1450 hoặc 1457), tiếp theo, giữa những năm 1508 và 1537, có các tu viện ở Grenade, Séville, Antequera, Aracena và Paterna del Campo. Tu viện đầu tiên ở Castille là tu viện Nhập Thể ở Avila, được thiết lập ngày 25.6.1479, và tiếp theo là các tu viện ở Fontiveros và Piedrahita. Những tu viện Tây Ban Nha này không có nội vi cho đến sau Công đồng Trente, và các Sắc Lệnh của Công đồng đã buộc các tu viện này tuân giữ. Vả lại, sự nghèo nàn cùng cực của những tu viện này đôi khi ngăn cản đời sống hoàn toàn đúng luật. Một ngoại lệ chắc chắn: Đan Viện độc nhất được thành lập tại Aragon: Đan Viện Valence, ngay từ lúc thành lập, đã có nội vi nhặt, và các nữ tu ở đó là các nữ đan sĩ Cát Minh.

Tu viện Nhập Thể ở Avila đã trở nên lừng danh, do một thiếu nữ trong thành phố, Têrêxa de Ahumada, vào tu ngày 2.11.1535. Thiếu nữ này sẽ mở rộng Dòng Cát Minh bằng cách thêm cho Dòng một nhánh theo cùng một lúc Luật Dòng 1427, và những cái nhìn thiên tài của Têrêxa, cùng với kinh nghiệm bản thân của người.

 8/ Các tu hội đời hoặc Dòng Ba và các Hội Dòng Cát Minh.

Từ cuối thế kỷ XII, khi các tu sĩ Dòng Cát Minh được Đức Giáo Hoàng dứt khoát phê chuẩn, và bắt đầu hội nhập vào các thành phố, người ta tìm thấy, dưới bóng các tu viện Cát Minh, lẻ tẻ hoặc thành nhóm, những giáo dân ước ao được nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của họ tận nguồn Dòng Cát Minh. Nhiều người trong số họ, ngay từ thời xa xưa ấy, đã được liên kết với Dòng rồi. Nhưng những việc đón nhận tự phát này, trong một thời gian dài, vẫn thuộc sáng kiến cá nhân các Bề Trên địa phương.

Vào đầu thế kỷ XIV, bắt đầu phát triển một phong trào giáo dân, nhất là phụ nữ, nhưng cũng là các gia đình – được mời gọi tận hiến cho Thiên Chúa theo gương Dòng Cát Minh. Tiếp tục sống trong gia đình của họ, họ dâng bản thân và của cải cho Dòng. Vào thời đó, chỉ có một Dòng, một “huynh đoàn” Cát Minh duy nhất gồm các tu viện tu sĩ Cát Minh và những hiệp hội giáo dân này. Đàng khác, các phụ nữ bắt đầu hình thành những cộng đoàn tu thực sự dưới sự hướng dẫn của các cha Dòng Cát Minh.

Không những nguồn gốc của các nữ đan sĩ Cát Minh, mà của các Dòng Ba hoặc tu hội đời Cát Minh dẫn đến việc công bố Sắc Lệnh Cum Nulla năm 1452, dưới nhiệm kỳ Bề Trên Tổng Quyền của cha Jean Soreth, có thể nói là vị sáng lập các Dòng ấy. Ba năm sau, cha soạn thảo Luật Dòng các tu sĩ Dòng Cát Minh, lần thứ ba, được Philippe de la Visitation sửa lại đôi chút và xuất bản năm 1675 (PVT 219-225). Quy Luật Dòng này, cũng như pháp chế các Dòng Ba Cát Minh sau này, nhấn mạnh lời giáo huấn chính của luật thánh Alberto, cầu nguyện liên lỷ và bao gồm các lời khấn vâng phục và khiết tịnh, lời khấn khiết tịnh ban đầu được xem như vĩnh viễn, rồi như thích nghi với bậc sống của mỗi người thuộc dòng Ba. Từ giữa thế kỷ XV, Dòng Ba tại thế, lan tràn khắp châu Âu, nhất là nhạy cảm đối với đời sống làm con cái Đức Mẹ Dòng Cát Minh.

Vào thời ấy, người ta cũng bắt đầu nói đến việc Đức Maria hiện ra với thánh Simon Stock và việc sùng kính Áo Đức Mẹ Núi Cát Minh trở nên rất phổ biến, vượt quá giới hạn của Dòng Ba. Nhiều giáo dân được huấn luyện theo tinh thần Dòng Cát Minh. Trong số này, chúng tôi chỉ kể hai chân phước cuối thời Trung Cổ  thôi: Jeanne de Toulouse, tu kín và Nuno Alvarez (1360-1431), tướng chiến thắng quân đội Bồ Đào Nha. Một pháp chế thống nhất cho các Dòng Ba thuộc Luật Dòng cổ xưa được soạn thảo giữa năm 1637-1678 dưới nhiệm kỳ Bề Trên Tổng Quyền của cha Théodore Stratius và cha Emile Jacomelli, và một Luật Dòng mới thích hợp với đòi hỏi của Công đồng Vatican II, được Tòa Thánh phê chuẩn năm 1977. Trong số những người Dòng Ba này, ta phải kể Marie de Sainte Thérèse (Petyt), nhà thần bí vĩ đại xứ Flandre và các vị tử đạo thời Cách Mạng Pháp: Thérèse Thiac và Anne Rose Bernard, bị chém đầu tại Bordeaux.

Dòng Ba Cát Minh Têrêxa phát triển chậm. Hai vị thánh tiến sĩ có một ảnh hưởng thiêng liêng trên nhiều giáo dân, mà điển hình là người anh của Thánh Têrêsa Avila, Don Lorenso de Cepeda; anh của Thánh Gioan Thánh Giá, Francisco de Yepes, cũng phải kể đến quả phụ Ana de Penalosa, nhờ bà mà vị tiến sĩ thần bí đã viết bài bình luận “Lửa Thiêng”. Dòng Ba Têrêxa chỉ thực sự bành trướng vào đầu thế kỷ XVII, sau khi Dòng phân chia làm hai Hội Dòng. Lúc đó, Hội Dòng nước Ý đảm nhận những huynh đoàn giáo dân. Năm 1708, Bề Trên Tổng Quyền của Họi Dòng này, cha Quentin de Saint- Charles, cho họ một Luật Dòng đặc biệt nhấn mạnh về việc nguyện ngắm. Cuối thế kỷ XIX, trong số các thành viên Dòng Ba Têrêxa, nổi bật là đại tướng Sonis ở Pháp và bà Carmen de Sojo, vợ một bác sĩ và là mẹ trong gia đình, ở Tây Ban Nha. Ta còn có thể nhắc đến ở đây, Marie Antoinette de Geuser, Consummata, dù không thuộc về Dòng Ba, nhưng đã sống tinh thần Cát Minh: “Cuộc đời tôi luôn luôn ở trong Ba Ngôi diễm phúc… tan hòa trong Tình Yêu, tôi được biến đổi thành Đức Kitô và tôi sống ở đó dưới ánh mắt Chúa Cha …”

Người giáo dân của Dòng Cát Minh, hiện diện với Thiên Chúa bởi đời sống nguyện ngắm của mình, cũng hiện diện với thế giới bởi nhiệt tình tông đồ của mình. Ngọn lửa được Thần Khí đốt lên nơi mình, trong cầu nguyện cần được truyền đạt, trong hành động trực tiếp hoặc trong bóng tối của cuộc hiến dâng trọn vẹn bởi đức tin.

Vào thế kỷ XIX và XX, nhiều Dòng tu được liên kết với hai Hội Dòng Cát Minh. Việc tông đồ của họ được thể hiện trong nhiều lãnh vực của một sự trung thành lớn lao đối với tinh thần Dòng, trong đó vai trò của cầu nguyện nội tâm là chính yếu. Những tu hội quan trọng nhất trong các gia đình tu trì này được sinh ra tại Tây Ban Nha – như Dòng các nữ tu Cát Minh Bác Ái do thánh Joachime de Vedruna sáng lập tại Pháp, Hà Lan và Ấn Độ. Cũng có những Tu Hội Cát Minh Tại Thế, trong số đó có Tu Hội Notre Dame de Vie ở Venasque, nước Pháp, ngày nay lan rộng trên nhiều quốc gia.

9/ Cuộc cải cách của Thánh Têrêxa

Têrêxa được hai mươi tuổi khi người vào Dòng Nhập Thể ở Avila. Những cuộc viếng thăm thường xuyên của người thế gian, thiếu nội vi và sự nghèo nàn quá đỗi làm nẩy sinh ở đó những lạm dụng; tuy vậy, cũng có một nhóm nữ tu rất sốt sắng. Dĩ nhiên, Têrêxa thuộc số những người này, cho dù, trong nhiều năm, người đã kháng cự với Thiên Chúa đòi hỏi người thuộc trọn về Ngài. Vào tuổi bốn mươi, một ơn Chúa mạnh mẽ, sau cùng đã ban cho người sức mạnh để quyết định chọn Ngài và từ bỏ mọi sự khác. Người phụ nữ này, xuất sắc về mặt nhân bản và thiêng liêng, sẵn sàng bắt tay vào công cuộc Thiên Chúa giao cho người.

Mẹ Têrêxa ý thức rằng lý tưởng sơ khởi của Dòng Cát Minh không được sống trọn vẹn trong Đan Viện của mình. niềm khao khát cầu nguyện, thinh lặng, cô tịch ngày càng gia tăng nơi người. Đàng khác, năm 1560, lời kêu gọi của vua Philip II cho người biết những tai họa mà cuộc cải cách Tin Lành gây ra cho Giáo Hội: “Tôi sẵn sàng hy sinh cả ngàn mạng sống cho một trong những linh hồn ấy đang hư mất” (CP 1). Phải làm gì đây để cho ước muốn tha thiết một đời sống vừa hoàn toàn chiêm niệm vừa hoàn toàn tông đồ trở nên hiện thực ? Một cuộc nói chuyện tình cờ làm nẩy sinh trong trí thánh nữ ý tưởng lập một Đan Viện các nữ tu không đi giày (Vào thế kỷ XVI, ở Tây Ban Nha, không đi giày nói lên một hình thức đời tu nhiệm nhặt hơn), nơi đó, Quy Luật tiên khởi sẽ được giữ rất nghiêm nhặt.

Thiên Chúa đã cho người biết rằng Ngài muốn việc sáng lập này (VE 9). Mẹ Thánh bắt tay vào việc với tất cả niềm hăng say. Biết trước sự chống đối của cha Giám Tỉnh Dòng Cát Minh, Mẹ theo lời khuyên của các giáo sĩ lỗi lạc, qua trung gian bạn bè đáng tin cậy, Mẹ bí mật xin Tòa Thánh cho Dòng Cát Minh của Mẹ một chiếu thư đặt Mẹ dưới thẩm quyền của Đức Giám Mục sở tại. Do Văn Kiện ngày 7.2.1562, Đức Cha Don Alvaro de Mendoza, Giám Mục Avila, chấp nhận cho Đan Viện thuộc quyền Ngài. Vị sáng lập Dòng đã mua và cho sửa sang ngôi nhà nhỏ với sự trợ giúp của chị người là Juana và anh rể Juan de Ovalle và bạn của Mẹ là Dona Guiomar de Ulloa. Ngày 24.8, mọi sự đã sẵn sàng, Mẹ Têrêxa, từ nay mang danh Têrêxa Chúa Giêsu – sẽ sống trong nội vi với bốn chị tập sinh trong Đan Viện nhỏ bé dâng kính Thánh Giuse này. Bấy nhiêu cũng đủ để gây nên một trận giông tố dữ dội chống lại tu viện mới và vị sáng lập.

Ngay hôm đó, bà Bề Trên tu viện Nhập Thể ra lệnh cho Mẹ Têrêxa phải trở về cộng đoàn ngay. Không chút do dự, người nữ tu Cát Minh đã vâng lời. Hôm sau, người ta đệ trình trường hợp của người cho cha Giám Tỉnh, Ange de Salazar, người mà Têrêxa đã lấy lòng khiêm nhượng chinh phục. Cha hứa sẽ để người trở lại Đan Viện San José, nếu nó còn tồn tại. Vì trong thành, người ta đã thề sẽ phá Đan Viện này bình địa vì thành lập mà không có hiện kim. Khi cơn giông tố tạm yên, Têrêxa trở về Đan Viện San José tháng 12.1562. Dần dần, người tổ chức đời sống cộng đoàn và biên soạn Hiến Pháp Dòng – một kiệt tác về sự quân bình nhân bản và thiêng liêng.

Năm 1566, nhờ một vị thừa sai cho biết những thiếu thốn thiêng liêng trầm trọng của những người da đỏ ở Tân Thế Giới, Mẹ Têrêxa khẩn nài Chúa ban cho mình ơn thu hút nhiều linh hồn phục vụ Ngài. Người nhận được câu trả lời sau đây: “Con sẽ được thấy những điều vĩ đại” (LF 1). Lời Chúa hứa được thực hiện ngay.

Năm sau, khi kinh lược ở Avila, cha Bề Trên Tổng Quyền Rubeo, không những tán thành công việc của Mẹ Têrêxa, mà còn cho người những giấy phép để thành lập vô giới hạn những Đan Viện khác nữa (LF 2). Còn về việc lập tu viện Cát Minh Cải Tổ nam, cha Tổng Quyền tỏ ra ít vồn vã hơn, nhưng Mẹ Têrêxa thắng được những sự dè dặt của ngài, qua thư ngày 10.8.1567, ngài cho phép Mẹ thành lập hai nhà “nam tu sĩ Cát Minh chiêm niệm”, sẽ “vĩnh viễn tuân phục Tỉnh Dòng Castille”.

Cùng năm ấy, một nữ Đan Viện Cát Minh thứ hai được thành lập tại Medina del Campo, nơi mà vị sáng lập gặp hai tu sĩ Cát Minh cải tổ tương lai: Cha Antoine de Heredia, Bề Trên tu viện của thành phố ấy, và một sinh viên Cát Minh trẻ tuổi, Jean de Saint Mathias, sau này trở thành cha Jean de la Croix. Năm 1568, hai nữ Đan Viện mới được thành lập tại Malagon và Valladolid; tiếp theo, vào ngày 28.11, tu viện nam Cát Minh cải tổ đầu tiên được xây dựng theo Giáo Luật tại Duruelo, một tu viện bé nhỏ và rất nghèo nàn. Cha Antoine de Jésus, cha Gioan Thánh Giá và thầy Giuse phó tế tuyên khấn theo Luật Dòng “tiên khởi”.

Với sự chúc lành của cha Rubeo, cuộc cải cách tiếp tục lan rộng nhanh chóng; giữa những năm 1570 và 1574, cha Bề Trên Tổng Quyền ban chứng thư để thành lập bảy tu viện Cát Minh cải tổ, tuy nhiên, cấm họ không được lập Dòng ở Andalousie, nếu bất tuân lệnh này, bão táp sẽ nổi lên chống lại họ.

Các vua Tây Ban Nha tự cho mình những đặc quyền rất rộng rãi: đề nghị những người sẽ được bổ nhiệm làm Giám Mục; quyền giải tất cả các hình phạt thuộc Giáo Hội kể cả vạ tuyệt thông; phải có sự đồng ý của nhà vua mới được công bố các Sắc Lệnh của Tòa Thánh. Một bộ trưởng của vua Philip II nói thật chí lý: “Tại Tây Ban Nha không có  Giáo Hoàng”.

Muốn cải tổ tất cả các dòng tu tại Tây Ban Nha, nhà vua tìm cách được Tòa Thánh giao cho toàn quyền, nhưng Tòa Thánh từ chối viện lý rằng Công đồng Trente sẽ giải quyết việc cải cách này. Quả thật, ngày 2.12.1563, Sắc Lệnh De Regularibus được công bố, giao việc canh tân các tu hội cho các Bề Trên các tu hội ấy. Để tìm cách, ít ra là chiếm đoạt được Dòng Cát Minh, gần đến lúc có Tổng Tu Nghị, vua Philippe II xin Đức Giáo Hoàng và cha tân Bề Trên Tổng Quyền một vị Tổng Đại Diện cho xứ Tây Ban Nha. Cha Rubeo phản ứng rất khôn khéo. Cha quy định quyền của vị tổng đại diện giả thiết ấy, và … cho vua Philippe II biết rằng cha sẽ đích thân đưa cuộc cải cách của Công đồng Trente và các Tỉnh Dòng xứ tây Ban Nha. Khi đã được chiếu thư của Đức Giáo Hoàng về vấn đề này, cha Rubeo đến Madrid tháng 6.1566 để được vua chuẩn y và gặp vua Philippe II, vua đón tiếp cha rất nồng hậu.

Cha Tổng Quyền bắt đầu kinh lược vùng Andalousie, nơi người nhận thấy nhiều lạm quyền và chia rẻ dai dẳng, nhất là do các thủ đoạn của cha Giám Tỉnh Gaspard Nieto, hai em của người, Melchior và Balthasar và phe cánh của họ. Ngài trừng phạt nghiêm khắc những kẻ gây lộn xộn và trong buổi họp kết thúc, người tuyên bố những luật lệ và chỉ thị của người, Hiến Pháp thực sự chiếu theo những sắc lệnh của Công đồng Trente. Nhưng khi cha Rubeo vừa rời khỏi Tỉnh Dòng này, các tu sĩ Cát Minh bị phạt và bị vạ tuyệt thông liền âm mưa chống lại người tại triều đình, nơi họ được giải các hình phạt. Cha Bề Trên Tổng Quyền tiếp tục việc kinh lược tận Bồ Đào Nha – Tỉnh Dòng được chúc phúc – người nói thế – và người tiếp tục chuyến đi sau khi kinh lược các Tỉnh Dòng Castille, Aragon và Catalogne, mà tình trạng khá tốt, mặc dù ít tu sĩ.

Trong lúc đó, những cuộc thương lượng rất bí mật được tiếp tục giữa triều đình và giáo triều Rome. Vua Philippe II muốn đẩy cuộc cải cách xa hơn nữa và cuối cùng được hai chiếu thư của Đức Giáo Hoàng (12.1566 và 4.1567) đặt các dòng tu ở Tây Ban Nha dưới quyền các Giám Mục và việc canh tân. Nhưng sau nhiều khiếu nại, Đức Piô V chọn những vị thăm viếng khác và đã bổ nhiệm cho Dòng Cát Minh, ngày 20.8.1569, ba cha Dòng Đaminh: Pierre Fernandez cho miền Castille; Michel de Hebrera cho Catalogne và Aragon; FranVois de Vargas cho Andalousie. Trong thời gian kinh lược, quyền bính của các ngài vượt trên quyền của các Bề Ttrên tổng quản. Gần như cho họ toàn quyền trong lãnh vực cải tổ và họ có thể ủy quyền cho các tu sĩ Đaminh khác hoặc tu sĩ Cát Minh. Một số những điều không rõ, những lối giải thích khác nhau về văn kiện bổ nhiệm các cha Dòng Đaminh và nhất là sự kiện cha Rubeo vẫn giữ những quyền ủy viên đặc trách của Tòa Thánh đã gây nên những cuộc tranh chấp trầm trọng giữa các tu sĩ Cát Minh cải tổ và không cải tổ.

Cha Fernandez đặt những tu sĩ cải tổ đứng đầu nhiều tu viện thuộc nhóm theo luật cũ tại Castille, ngõ hầu cải tạo họ theo ý muốn của nhà vua. Để tổ chức các nhà tu sĩ cải tổ, người bổ nhiệm cha Baltasar de Jésus (Nieto) làm đại diện Tỉnh Dòng cùng đi theo họ. Vào năm 1571, vị kinh lý phái Mẹ Têrêxa Chúa Giêsu đến tu viện Nhập Thể ở Avila với tư cách là Bề Trên để đưa các nữ tu vào một nếp sống đúng luật hơn. Mặc dù một số tu sĩ không cải tổ bất mãn về những sự sắp xếp này, nhưng cuộc viếng thăm của cha Fernandez đã thành công. Năm 1575, tại Tu Nghị ở Plaisance, cha Rubeo quyết định rằng các lệnh của người phải được thi hành.

Tình hình ở Andalousie còn nghiêm trọng hơn nữa. cuộc kinh lý của cha de Vargas không đạt được hiệu quả bằng cha Bề Trên Tổng Quyền vì người rất khôn ngoan, đáng kính. Theo người, chỉ có phương thế hữu hiệu để cải tổ Tỉnh Dòng này là đưa các tu sĩ cải tổ vào, bất chấp sự cấm đoán rõ ràng của cha Rubeo. Như vậy, người đưa vị cải tổ trẻ tuổi vào một tình huống pháp lý rối rắm không thể gỡ được. Dù quyết định của vị kinh lý có thể biện hộ được về mặt pháp lý – Mẹ lập Dòng, được các nhà chuyên về Giáo Luật xuất sắc cố vấn; không bao giờ nghi ngờ về tính hợp pháp của những nhà mới sáng lập theo lệnh của cha Vargas – quyết định này là một thất bại nặng cho toàn Dòng. Vào tháng 11.1572, sau khi giao tu viện Saint-Jean du Port cho hai tu sĩ cải tổ, tình cờ xuống Andalousie, cha Vargas, mời cha Balthasar de Jésus, năm sau, sáng lập nhà ở Grenade, và cha Gabriel de la Conception sáng lập nhà ở La Penuela. Mà đó lại là những tu sĩ không cải tổ phản loạn bị cha Rubeo trừng phạt nghiêm  nhặt, lại thành lập những cộng đoàn cải tổ đầu tiên tại Andalousie.

Ngày 28.4.1573, cha Vargas bổ nhiệm cha Balthasar de Jésus làm Bề Trên ba tu viện và ủy quyền cho người kinh lược tất cả những cộng đoàn cải tổ cũng như không cải tổ đã được thiết lập hoặc sẽ thiết lập tại Adalousie. Cha còn ra lệnh cho người lập một nhà mới tại Séville nữa. Nhưng ngày 4.8 cùng năm ấy, cha Balthasar Nieto trao quyền của mình cho một tu sĩ cải tổ trẻ tuổi, mới ở nhà tập ra, rất xuất sắc nhưng hoàn toàn thiếu kinh nghiệm: Jérôme – Gratien de la Mère de Dieu. Lấy cớ đi theo cha Ambroise Mariano là một tu sĩ cải tổ, vì công việc phải đến Andalousie, cha Gratien lẳng lặng rời khỏi Tỉnh Dòng Castille. Khi cha Bề Trên Giám Tỉnh gọi về, cha Vargas lại bênh vực cho Jérôme – Gratien. Vào tháng 10, cha Gratien giao trả cộng đoàn Saint Jean de Port cho các tu sĩ không cải tổ và vào tháng 1.1574, mở một cộng đoàn mới cải tổ tại Séville. Người thông báo việc này cho cha Rubeo; cha Bề Trên Tổng Quyền Rubeo viết cho người một bức thư, nghiêm khắc tố cáo người “đã hành động ngược với đức vâng phục” trong lúc “mới hết là tập sinh thôi”. Gratien, xác tín rằng quyền Tòa Thánh của mình vượt trên quyền của cha Bề Trên Tổng Quyền, nên không bao giờ liên lạc cho cha nữa, bất chấp lời khẩn khoản của Mẹ Têrêxa Chúa Giêsu.

Ngày 13.6 năm ấy, cha Vargas còn đi xa hơn nữa khi bổ nhiệm cha Gratien làm Đại Diện Tỉnh Dòng “những tu sĩ Cát Minh cải tổ và không cải tổ” vùng Andalousie, và ra lệnh cho người phải chấp nhận, nếu không thì mắc vạ tuyệt thông và tội phản loạn. Ngày càng tức tối, cha Bề Trên Tổng Quyền Rubeo, được Đức Giáo Hoàng Grégoire XIII, ban một Tự Sắc ngày 13.8.1574 bãi nhiệm các vị kinh lý Đaminh với điều kiện duy trì những gì họ đã quyết định. Từ này về sau, các tu sĩ Dòng Cát Minh sẽ được cha Bề Trên Tổng Quyền hoặc các ủy viên của người viếng thăm. Tuy nhiên, cha Ormaneto, Khâm Sứ Tòa Thánh vẫn giữ quyền Tòa Thánh của mình đối với việc cải cách các dòng tu. Xét rằng việc cải tổ Dòng Cát Minh chưa được hoàn thành, người đích thân đảm nhận việc này và, ngày 22.9, người bổ nhiệm cha Vargas và cha Gratien liên đới với nhau kinh lý vùng Andalousie. Thực ra, việc kinh lý hầu như đặt trên đôi vai của vị tu sĩ cải tổ trẻ.

Mẹ Têrêxa Chúa Giêsu rất hài lòng về những tiến bộ của con cái mình tại Andalousie, mặc dù hối tiếc nỗi bất bình của cha Bề Trên Tổng Quyền (LM 14.5.1574). người đã tiếp tục lập Dòng trước khi chấm dứt nhiệm kỳ Bề Trên của người tại Tu viện Nhập Thể: Đan Viện Ségovie được thành lập năm 1574; rồi khi hết nhiệm vụ, người đến Beas, mà người tưởng không thuộc về Andalousie (LM 9.1574), tuy nhiên, Beas thuộc vùng này. Và như vậy, Mẹ Têrêxa thuộc quyền cha Gratien mà Mẹ chưa một lần gặp mặt. Chính tại Beas mà hai vị gặp nhau. Vị sáng lập Dòng lớn tuổi hơn cha Gratien nhiều, bị vị tu sĩ Cát Minh xuất sắc, trẻ tuổi này thu hút đến nỗi hoàn toàn tin tưởng nơi người tức khắc. Chứng cớ tốt đẹp này minh chứng rằng nhà thần bí vĩ đại này vẫn giữ được nguyên vẹn tất cả nữ tính của mình. Vào đúng năm 1575, theo ý muốn của cha Gratien, Mẹ Têrêxa đi lập Dòng tại Séville, xác tín rằng quyền của cha Gratien cao hơn cha Rubeo.

Việc lập Dòng này trùng hợp, xê xích vài ngày với việc khai mạc Tổng Tu Nghị được cha Bề Trên Tổng Quyền triệu tập tại Plaisance ngày 21.5.1575. Bản bãi nhiệm các vị kinh lý Dòng Đa Minh đã được đọc cách chính thức. Các sắc lệnh của Tổng Tu Nghị cấm các “tu sĩ chiêm niệm” họp thành một Tỉnh Dòng hoặc Hội Dòng tách rời Tỉnh Dòng Castille: Những tu sĩ đã mở những cộng đoàn ngoài ý muốn của Bề Trên Tổng Quyền phải bị cách chức: các tu viện Grenade, Séville và La Penuela phải bãi bỏ trong vòng ba ngày. Lời phán quyết quả là nghiêm khắc. Một trong những quyết định của Tổng Tu Nghị không được công bố nhưng được thông đạt trực tiếp cho Mẹ Têrêxa Chúa Giêsu: Buộc Mẹ phải ở lại trong một Đan Viện tùy Mẹ lựa chọn. Mẹ đã chọn Đan Viện Tolède.

Ngày 3.8.1575, Đức Khâm Sai Ormaneto cho cha Gratien những quyền của vị kinh lý tất cả các tu sĩ cải tổ và không cải tổ tại Andalousie, và cả các tu sĩ cải tổ ở Castille. Nắm trong tay quyền này và dựa trên ý muốn qua tiếng nói của vị Khâm Sai, cha Gratien tưởng mình có quyền thành lập, qua bức thư ngày 3.8.1576, “một Tỉnh Dòng và Hội Dòng” – dưới quyền trực tiếp Bề Trên tổng quản – “và Tỉnh Dòng ấy bao gồm tất cả các cộng đoàn cải tổ đã hoặc sẽ được thành lập, để các tu sĩ cải tổ có thể sống một cách đồng nhất với nhau”. Đồng thời, cha Gratien triệu tập một Tu Nghị các tu sĩ Cát Minh cải tổ ở Almodovar, và họ tụ họp với nhau ngày 1.9 rõ ràng là trong trường hợp này, cha Gratien đã vượt quá quyền hạn của mình.

Chiến tranh sắp bùng nổ, ngày 5.8.1576, đã áp dụng các sắc lệnh của Tổng Tu Nghị Plaisance, cha Jérôme Tostado, đại diện của cha Rubeo, đến Tây Ban Nha, nhưng người đi thăm Bồ Đào Nha trước. Ngày 18.8.1577, vị bảo trợ các tu sĩ cải tổ, Khâm Sứ Ormaneto qua đời. Kế vị người là Đức Cha Sega, đến nơi vào ngày 29.8, được báo trước sẽ chống lại họ. Cũng tháng đó, cha Tostado cũng có mặt tại Madrid. Vị tân Khâm Sứ cấm cha Gratien tiếp tục kinh lý. Cha Gratien vâng phục, chờ đợi điều xấu nhất xảy đến. Tostado can thiệp tại tu viện Nhập Thể ở Avila, nơi mà các nữ tu muốn Mẹ Têrêxa Chúa Giêsu tái cử. Vị Giám Tỉnh các tu sĩ Cát Minh chủ tọa cuộc bầu cử đầy sóng gió. Ngày 3.12, cha Thánh Gioan Thánh Giá và đồng bạn của người, đều là tuyên úy của tu viện, bị bắt đi ban đêm như những kẻ gian. Sau khi đích thân cai quản các tu sĩ cải tổ cho đến ngày 16.10 thì đặt họ dưới quyền các giám tỉnh Castille và Andalousie.

Ngày 5.9.1578, cha Rubeo vĩ đại đã trút linh hồn về cùng Thiên Chúa. Khi nghe tin này, Mẹ Têrêxa Chúa Giêsu rất đỗi buồn sầu, Mẹ viết: “Nếu người ta biết nhờ đến người, thì ngày nay mọi nỗi khó khăn đều được san bằng cả rồi, và chắc chắn Mẹ có lý” (LM 15.10.15878).

Ngày 1.4.1579, cha Ange de Salazar, đầy khôn ngoan và từ tâm, được bổ nhiệm làm Bề trên các tu sĩ cải tổ. Sau khi tìm hiểu tường tận cuộc xung đột làm chia rẽ các tu sĩ Dòng Cát Minh, vị Khâm Sai yêu cầu vua Philippe II xin Đức Giáo Hoàng cho thiết lập một Tỉnh Dòng độc lập của con cái thánh Têrêsa. Đức Giáo Hoàng Gregorie XIII đã tán thành bằng một chiếu thư ngày 22.6.1580. Tại Tổng Tu Nghị đầu tiên các tu sĩ cải tổ họp tại Alcala tháng 3.1581, cha Jérôme Gratien được bầu làm Giám Tỉnh.

Mẹ Têrêxa, “mặc dù già yếu và bệnh tật” (LM 18.6.1575), đã sáng lập năm 1580 các Đan Viện Vilanueva de la Jara và Palencia và năm sau, Đan Viện Soria. Năm 1582, Mẹ sáng lập xây dựng tại Burgos Đan Viện Cát Minh cuối cùng của mình bằng những thử thách lớn lao. Vị sáng lập Dòng Cát Minh cải tổ qua đời tại Đan Viện Albe de Tormès ngày 4.10.1582. Lúc bấy giờ, người ta đếm được 15 tu viện nam cải tổ và 17 Đan Viện nữ cải tổ.

Cuối nhiệm kỳ Giám Tỉnh của cha Gratien, tu nghị Lisbonne (1585), theo đề nghị của người, bầu cha Nicolas de Jésus-Marie Doria người Ý thành Gênes, độc tài, ít nhấn mạnh việc chiêm niệm tuôn tràn thành việc tông đồ cho bằng việc giữ luật. Trước hết, người tự đề nghị phải tách rời hoàn toàn các tu sĩ cải tổ khỏi các tu sĩ không cải tổ. Hai năm sau khi được bầu làm Giám Tỉnh, người đã xin Đức Giáo Hoàng  ban cho một chiếu thư thành lập các tu sĩ cải tổ thành một Hội Dòng độc lập, dưới quyền trực tiếp của Bề Trên Tổng Quyền và có một Tổng Đại Diện cai quản. Năm sau, cha Nicolas được bầu làm nhiệm vụ này, ngài đặt ngay một lối quản trị mới, Consulta – gồm vị tổng đại diện và ban cố vấn của người – có toàn quyền, như vậy, các Bề Trên và Giám Tỉnh không còn quyền hành gì nữa cả.

Các nữ đan sĩ Cát Minh có lý do để sợ rằng cha Doria sửa đổi luật lệ của họ. Lúc đó, Mẹ Bề Trên ở Madrid, Anne de Jésus xin Đức Giáo Hoàng Sixte – Quint một chiếu thư xác nhận Hiến Pháp của các nữ đan sĩ đã được phê chuẩn tại Alcala, lúc đó Mẹ Têrêxa Chúa Giêsu còn sống. Cha tổng đại diện nổi giận quá đáng và đe dọa không cai quản các nữ tu Cát Minh nữa. Cha thánh Gioan Thánh Giá phản kháng chống lại quyết định này và chống lại ý đồ của cha Doria là đuổi cha Gratien ra khỏi Dòng. Thất sủng, vị tiến sĩ Dòng Cát Minh rời Tổng Tu Nghị Madrid, không giữ một chức vụ nào nữa. Thanh thản, người đến La Penuela rồi Ubeda, nơi mà người qua đời trong niềm vui ngày 13.12.1591, sau những đau khổ lớn lao thể xác và tinh thần. Số phận của cha Gratien thật bi đát: sau một vụ xét xử bất công, cha Doria đuổi người ra khỏi Dòng Cát Minh cải tổ năm 1592. Hai mươi hai năm sau, vị cộng tác viên vĩ đại của thánh Têrêsa ra đi bình an tại Dòng các tu sĩ không cải tổ ở Bruxelles.

Vị Bề Trên các tu sĩ cải tổ, cuối cùng thấy mình được tự do hành động theo cách nhìn của mình, vì những kẻ chống đối đã “khuất” rồi. Từ nay, cuộc cải tổ sẽ theo chính đường lối của người. Tại Tổng Tu Nghị ở Crémone năm 1593, cha Doria cho trình bày một thỉnh nguyện thư xin, “vì lợi ích của hòa bình, yên ổn và phát triển của toàn Dòng, cũng như Hội Dòng các tu sĩ cải tổ”, được hoàn toàn tách rời với nhóm theo Luật cũ để họp thành một Dòng độc lập. Tổng Tu Nghị bỏ phiếu thuận được sắc lệnh Pastoralis officii do Đức Giáo Hoàng Clément VIII xác nhận ngày 20.12 năm ấy; Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm cha Doria làm Bề Trên Tổng Quyền tiên khởi của Dòng Cát Minh Cải Tổ. Năm sau, “Sư Tử Dòng Cát Minh” qua đời, thọ 55 tuổi. Người có nói: “Dù sau khi chết, xương cốt tôi va chạm trong mồ, nó vẫn còn kêu lên: Giữ Luật, giữ Luật …”

Được tách rời về mặt pháp lý, tuy nhiên, hai nhánh của Dòng Cát Minh vẫn hiệp nhất do bởi cùng một nguồn gốc và di sản thiêng liêng với nhau. Thế nhưng, do bởi sự mỉa mai của lịch sử, thánh Têrêsa Chúa Giêsu và thánh Gioan Thánh Giá đã qua đời trong Dòng Cát Minh cổ xưa chưa bị chia cắt.

 10/ Dòng Cát Minh Cải Tổ lan rộng ở Châu Âu

Cha Doria đã ra lệnh rằng cuộc cải cách của Mẹ Têrêxa không được lan tràn ngoài biên giới Tây Ban Nha và các cha kế vị người đã theo đường hướng này. Tuy nhiên, cha Nicolas de Jésus-Maire đã lập một tu viện Cát Minh cải tổ tại Gênes năm 1584, theo lệnh của cha Jérôme Gratien. Thế nhưng, cuối thế kỷ XVI, tu viện ở Gênes được đề nghị lập một nhà tại Rome. Cha Bề Trên Tổng Quyền Tây Ban Nha từ chối nên Đức Giáo Hoàng Clément VIII can thiệp bởi Tự Sắc ngày 20.3.1597, tách các tu sĩ Dòng Cát Minh cải tổ ở Gênes và Rome khỏi các tu sĩ ở Tây Ban Nha. Tu viện Scala được xây dựng cùng năm đó tại Rome. Ngày 13.11.1600, Đức Giáo Hoàng phân Dòng Cát Minh cải tổ thành hai Hội Dòng tự trị: Hội Dòng Thánh Giuse cho Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Mexique và Hội Dòng Thánh Elie cho nước Ý và các vùng khác của Châu Âu và toàn thế giới.

Vài tu sĩ Cát Minh xuất sắc từ Tây Ban Nha đến, nhất là cha Jean de Jésus-Maria (de Calahorra) và Thomas de Jésus, ở lại nước Ý và góp phần huấn luyện các tu sĩ Cát Minh cải tổ của xứ này. Giữa năm 1602 và 1623, mười tu viện mới được thiết lập tại Ý. Những người ngoại kiều của nhiều nước xin vào các tập viện ở Ý để về sau có thể tạo lập những tu viện trong xứ của họ. Đan Viện các nữ đan sĩ Cát Minh ở Gênes, chia ra đi lập nhà ở Avignon (1613) rồi ở Terni (1618). Ba dòng nữ Cát Minh nữa tiếp theo, trong số đó, hai Dòng ở Rome.

Năm 1604, ba tu sĩ Cát Minh cải tổ thừa sai, lên đường hướng về Ba Tư, khi ngang qua xứ Ba Lan, nơi mà vua Sigismond đón tiếp họ nồng nhiệt. Cuộc gặp gỡ này là nguồn gốc của việc lập tu viện Ba Lan đầu tiên tại Cracovie (1605), và ít năm sau, chín tu viện khác được thành lập nhờ cộng đoàn này.

Tại Pháp, các nữ đan sĩ Cát Minh định cư trước các cha Dòng này. Cha Jean de Quintanaduenas de Brétigny – mẹ người Tây Ban Nha, cha người Pháp – đóng một vai trò chủ yếu, mặc dù ẩn kín. Pierre Sérouet, sử gia của Cha, vừa phục hồi cho cha danh hiệu “Người đầu tiên phát huy Dòng nữ Cát Minh cải tổ tại Pháp và Bỉ”. Năm 1587, nhân một chuyến đi, cha Brétigny gặp Mẹ Marie de Saint Joseph, người con yêu của Thánh Têrêsa tại Dòng nữ Cát Minh ở Seville. Được chinh phục, người học hỏi tinh thần cải tổ dưới sự hướng dẫn của cha Gratien. Năm 1585, người đến Pastrana nơi các tu sĩ họp Tổng Tu Nghị và nêu ước muốn đưa Dòng nữ Cát Minh vào Pháp. Tu Nghị chấp nhận với điều kiện phải có các cha Dòng Cát Minh đến trước các nữ tu để có thể giúp đỡ các chị. Trở về Pháp, cha Brétigny vận động đủ cách rồi trở qua Tây Ban Nha. Tình hình có nhiều thay đổi. Cha Doria nắm toàn quyền cũng như vua Philippe II tỏ ra dè dặt. Sau hai năm cố gắng luống công, cha Jean de Brétigny trở về Pháp, thất vọng và lo dịch các tác phẩm của Mẹ Têrêxa Chúa Giêsu.

Tại Paris, bà Barbe Acarie quảng cáo các tác phẩm đó, nhưng không mấy ai hâm mộ. Nhưng Mẹ Thánh hiện ra với bà, thúc giục bà đưa con cái của người vào nước Pháp. Khi bà đã thuyết phục được các giáo sĩ quen biết theo mục đích của mình, mọi sự được tiến hành nhanh chóng và được quyết định: Đan Viện đầu tiên sẽ được thành lập tại Paris: Họ sẽ xin Hiến Pháp và sẽ qua Tây Ban Nha để mời con cái Thánh Têrêsa có khả năng truyền đạt tinh thần Cát Minh cho những người Pháp; vì thiếu tu sĩ, nên ba vị Bề trên được chọn trong số những vị thân thiết với bà Acarie: đó là các cha Duval, Gallemant và Bérulle. Tòa Thánh đã phê chuẩn dự án này, nên người ta chuẩn bị cho Đan Viện tương lai. Đã từ lâu, bà Acarie đã huấn luyện các thiếu nữ sống đời tu trì, chỉ còn thiếu sáu nữ đan sĩ Tây Ban Nha thôi. Phải cần đến tất cả tài ngoại giao của cha Bérulle và một chiếu thư Tòa Thánh để buôc cha Giám Tỉnh ngoan cố nhường các chị ấy. Trong số này, có chị Anne de Jésus, con yêu của Mẹ Têrêxa và chị Anne de Saint Barthélemy, người bạn đồng hành không rời Mẹ trong những năm cuối đời người.

Năm 1604, khánh thành Dòng Nữ Cát Minh Nhập Thể tại Saint – Denys. Mẹ Anne de Jésus trở thành Bề Trên đầu tiên. Vô số khó khăn xảy ra nên Mẹ phải rời khỏi Paris và  một năm sau, lập Dòng tại Dijon. Mẹ Anne de Saint Barthélemy vừa thành lập Đan Viện tại Pontoise, kế vị Mẹ. Năm 1606, theo lời yêu cầu của các quận công Hà Lan, Mẹ Anne de Jésus rời khỏi nước Pháp, cùng với hai mẹ Tây Ban Nha khác và vài người Pháp để lập một Dòng nữ Cát Minh tại Bruxelles. Mẹ Anne de Saint Barthélemy, sau khi lập Dòng ở Tours, cũng đã sang Hà Lan. Mẹ viết: “Tôi không quên chị em Pháp của tôi đâu!”. Trong số các nữ tu Tây Ban Nha, chỉ có mình Mẹ Isabelle des Anges ở lại Pháp cho đến cuối đời. Từ nay, Dòng Cát Minh đã vững vàng tại Pháp. Mẹ Bề Trên người Pháp đầu tiên là Mẹ Madeleine de Saint Joseph kế vị Mẹ Anne de Saint Barthélemy tại Paris. Người ta còn giữ lại lời kinh này của Mẹ: “Lạy Chúa, Chúa đã lấy đi bản tính của con, thì xin Chúa cũng lấy đi con người của con nữa!”. Sau khi chồng qua đời, bà Barbe Acarie xin vào Dòng Cát Minh tại Amiens với tư cách trợ sĩ. Tại Beaune, nữ tu Marguerite du Saint – Sacrement tiến sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa qua thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Chị khai mở việc tôn sùng Chúa Giêsu Hài Đồng ở Beaune. Khi Mẹ Isabelle des Anges qua đời (1644), Dòng Cát Minh Pháp có 55 Đan Viện.

Các tu sĩ Cát Minh cải tổ lập nhà đầu tiên tại Avignon, khi ấy thuộc lãnh thổ Giáo Hoàng (1609). Một năm sau, họ được vua cho phép lập Dòng tại Pháp. Tu viện đầu tiên của các cha được thành lập tại Paris, đường Vaugirard năm 1611. Cùng năm ấy, khánh thành tu viện ở Nancy, và ít lâu sau, Charenton cũng có một tu viện Dòng Cát Minh. Những tu viện khác tiếp nối với một nhịp khá nhanh chóng: 13 nhà giữa những năm 1619 – 1635.

Ở Bỉ, Mẹ Anne de Jésus còn lập những Đan Viện tại Louvain rồi ở Mons, và Mẹ Anne de Saint Barthélemy lập Đan Viện ở Anvers, nơi mà mọi người đều kính mến Mẹ. Ngay khi đến Bỉ, Mẹ Bề Trên của Bruxelles đã nài nỉ xin vua cho các cha Dòng Cát Minh cải tổ đến. Năm 1610, các cha đầu tiên được tiếp đón linh đình tại thủ đô và ngày 2.9, họ đã khánh thành tu viện của họ thật long trọng. Một nhà nữa được lập tại Louvain, trong vòng vài năm, bốn mươi sinh viên của đại học xin nhập Dòng. Giữa năm 1610 và 1652, các tu sĩ cải tổ ở Hà Lan lập thêm 24 nhà. Còn các nữ đan sĩ thì lập thêm bảy Đan Viện trong vòng 12 năm. Chính tại Hà Lan mà năm 1612, năm nữ đan sĩ Cát Minh đi Ba Lan để đáp lời mời gọi của nữ bá tước Myrow Myszkoski. Nữ bá tước xây cho các nữ đan sĩ một Đan Viện tại Cracovie, nơi đó, ba năm sau, người được đội lúp. Có những Đan Viện khác được thành lập tại Lemberg,  Varsovie và Cracovie – Wesola.

Mẹ Anne de Jésus vẫn là linh hồn của Dòng Cát Minh Têrêxa ở Bỉ. Giữa một cơn thử thách lớn lao, người viết: “Không phải người ta thử thách chúng ta, nhưng là chính Đấng biết rõ những viên đá sống động của thành thánh Giêrusalem trên trời phải được gọt dũa thế nào”. Để cho mình được gọt đẽo đến tận cùng, “hoàn toàn rã rời và run rẩy”, nữ đan sĩ vĩ đại này đã chết thánh thiện tại Bruxelles ngày 4.3.1621.

Năm 1613, một nhóm các tu sĩ cải tổ ở Bỉ đến Cologne, nơi họ lập tu viện đầu tiên của Dòng tại Đức. Những tu viện khác phát xuất từ những biến động của cuộc chiến Ba Mươi Năm. Cha Dominique de Jésus – Marie, một tu sĩ Tây Ban Nha thuộc Hội Dòng Ý đã đóng góp nhiều, với tư cách sứ thần của Đức Giáo Hoàng Grégoire XV, cho cuộc chiến thắng của quân công giáo tại Núi Trắng gần Prague năm 1620. Để trả ơn, Hoàng Đế Ferdinand II đã cho phép các cha Dòng Cát Minh cải tổ lập Dòng đầu tiên tại Áo, hai năm sau tại Vienne và quận công Maximilien xứ Bavière cũng mời các cha đến Munich cùng một lý do ấy. Hoàng Đế cũng mời các nữ đan sĩ ở Terni (Ý) đến để thiết lập đời tu Têrêxa tại Vienne. Chẳng bao lâu, đế quốc Áo – Hungari có sáu Đan Viện. Mẹ Anne de Saint Barthélemy muốn lập một cộng đoàn tại Cologne mà Mẹ tiên báo là sẽ “vẻ vang”. Nhưng mãi sau khi Mẹ qua đời, Dòng Cát Minh Đức Mẹ Hòa Bình mới được khánh thành tại đó, năm 1649. Tiếp theo là năm Đan Viện Đức khác nữa.

Năm 1617, sáu Tỉnh Dòng đầu tiên của Hội Dòng Ý được lập theo Giáo Luật: Tỉnh Dòng Gênes, Rome, Pologne, France, Belgique và Lombardie. Chín năm sau, các tu viện ở Cologne, Vienne và Prague họp thành Tỉnh Dòng Đức, vào năm 1701, Tỉnh Dòng Áo tách rời từ đó. Tỉnh Dòng ở Bourgogne được thành lập ngay từ năm 1653.

11/ Những cuộc cải cách trong Dòng Cát Minh theo luật cũ, thế kỷ XVII

Từ đầu thế kỷ XVII, những phong trào cải cách phát sinh ở nhiều nước. Phong trào quan trọng nhất được thiết lập tại Pháp, trong Tỉnh Dòng miền Touraine. Vào thời ấy, tình trạng bảy Tỉnh Dòng của xứ này thật thê thảm, các cuộc chiến tranh tôn giáo đã làm cho nhiều tu viện lâm vào cảnh cơ cực tột độ. Các cha Pierre Behourt, Louis Charpentier và nhất là Philippe Thibault khởi xướng cuộc cải cách ở Touraine. Cha Behourt, khi đó làm Bề Trên tu viện Ploermel, khoảng năm 1600, cùng hai bạn đồng hành bắt đầu việc cải cách đầu tiên khi khước từ mọi sở hữu cá nhân, đã tuyên bố: “Vĩnh biệt đại danh từ độc ác MEUM (cái của tôi) đã gây bao tệ hại cho thế giới”. Lòng kiên trì của người dọn đường cho cha Thibault mà người ta gọi là cha của cuộc cải cách. Sinh tại Angers năm 1572, người vào Dòng Cát Minh tại thành phố ấy. Chẳng bao lâu, người nghĩ đến việc chuyển qua dòng Chartreux hoặc Cát Minh cải tổ, nhưng các Bề Trên thượng cấp bảo người ở lại Dòng để xúc tiến việc cải cách tại đó. Khi cha Charpentier đắc cử Bề Trên tu viện ở Rennes, người mời cha Thibault đến giảng, mùa Chay năm 1608. Sự hiện diện của người làm nên những điều kỳ diệu và khuyến khích anh em sống sốt sắng. Cộng đoàn tha thiết yêu cầu người ở lại với tư cách là phó Bề Trên và Giáo Tập, người chấp nhận, nhưng những sự chống đối buộc người phải trở về Paris. Ít lâu sau, cha Charpentier được bổ nhiệm ở Angers, cha Thibault được bầu làm Bề Trên ở Rennes và đã cải tổ hoàn toàn tu viện này. Các tập sinh đầu tiên được tuyên khấn tháng Giêng 1609.

Tỉnh Dòng Touraine đã thừa nhận cuộc cải cách năm 1611 nhờ có Nghị Quyết về Quy Luật, dần dần một pháp chế được soạn thảo. Một bản phác thảo Luật và Quy Chế các tu sĩ Cát Minh ở Rennes được điều chỉnh năm 1615 và tìm cách thức quyết định trong các việc đạo đức của Dòng được bổ sung bởi Cẩm Nang thiêng liêng. Trong Hiến Pháp mới này, người ta nhấn mạnh đến đời sống nội tâm và những gì tạo điều kiện thuận lợi cho nó: “Phải quyết tâm nguyện ngắm vì đó là cốt lõi của đời sống chúng ta”. Khi ấy, cha Thibault mời hai tu sĩ của tu viện Dol đến, hai vị này sẽ giữ chức vụ quan trọng trong cuộc cải cách mới bắt đầu: cha Mathieu Pinault và cha Jean de Saint – Samson. Cha Mathieu được bổ nhiệm làm phó Bề Trên và Giáo Tập tại Rennes và cha Jean trở thành linh hồn cuộc cải tổ ở Touraine. Cộng đoàn tiếp nhận nhiều ơn gọi đáng giá, như cha Archange de Saint – Luc, Giám Tỉnh tương lai của Touraine, cha Léon de Saint – Jean, nhà giảng thuyết và văn sĩ lừng danh; cha Dominique de Saint – Albert có nhiều uy tín đối với anh em mình.

Năm 1617, cha Thibault xin được một tổng đại diện cho các nhà cải tổ: cha Mathieu Pinault. Năm sau, cha Bề Trên ở Rennes trở thành Giám Tỉnh Touraine, từ nay, người là một trong những nhân vật vĩ đại tại Pháp. Các Bề Trên Tổng Quyền trông cậy vào người để có được một phong trào canh tân rộng lớn. Ngay từ năm 1621, đã bắt đầu cải cách Tỉnh Dòng Narbonne. Phong trào dần dần lan đến các Tỉnh Dòng Bỉ, Toulouse, Pháp và Provence. Khoảng giữa thế kỷ XVII, tất cả các Tỉnh Dòng Pháp đều được cải tổ ngoại trừ tu viện lớn ở Paris, quảng trường Maubert. Ở Bỉ, cha Michel de Saint – Augustin (1621-1684) có một ảnh hưởng sâu đậm. Người cũng là cha linh hướng của nhà đại thần nhiệm Bỉ: Marie de Sainte Thérèse (Petyt). Năm 1657, cha đưa bà về Malines, cho ở trong một ẩn viện gần nhà thờ các cha Dòng Cát Minh, nơi đó, với tư cách thành viên Dòng Ba Cát Minh tại thế, bà sống với vài đồng bạn cho đến cuối đời.

Được dứt khoát hoàn chỉnh năm 1635, Hiến Pháp của cuộc cải cách Touraine, dưới một hình thức biên soạn lại có ý cho tất cả các tu viện cải tổ, đã khởi xướng phong trào “giữ luật nhặt” dần dần lan đến tất cả các Tỉnh Dòng. Trong Hiến Pháp này, người ta nhấn mạnh trên việc thiết lập đời sống cộng đoàn và trở về với một đời sống trước hết, nhưng không phải chuyên về chiêm niệm. Các Cẩm Nang riêng cho tập sinh cũng nhấn mạnh trên điểm này: “Nhiệm vụ đầu tiên và chính yếu của Hội Dòng chúng ta là tập trung chú ý vào Thiên Chúa, lưu lại với Ngài trong cô tịch, thinh lặng và cầu nguyện liên lỷ”. Việc “giữ luật nhặt” cũng được đưa vào trong hai Tỉnh Dòng Đức, được tuyên bố hoàn toàn cải cổ năm 1660. Các tu viện ở Vienne nước Áo và Budapest, cũng như nhiều nhà ở Silésie, Bohème và Pologne cũng được cải cách về đời tu vào thời ấy.

Những phong trào cải cách cũng phát sinh trong những nước khác. Tại Tây Ban Nha, Tỉnh Dòng Aragon được Bề Trên của mình, cha Jean Sanz (+ 1608) đưa về một lối giữ luật chặt chẽ hơn; cha vốn là một tu sĩ gương mẫu “chính mình thực hành những gì người dạy cho kẻ khác” như đã ghi trên bia mộ của cha. Tại Castille, đời tu đồng thời phục hưng lại, nhất là nhờ cha Michel de la Fuente (1574-1626), dưới nhiệm kỳ Giám Tỉnh của cha Carranza, đời tu ở Bồ Đào Nha cũng được duy trì ở mức độ cao, theo nhận xét của cha Jérôme Gratien năm 1584. Năm 1619, tại Sicile, cha Desiderius Placa đã thiết lập tại tu viện Monte Santo ở Catane, một phong trào trở về với luật Dòng năm 1247. Cuộc cải cách này cũng lan đến nước Ý và một cuộc cải cách khác phát triển tại Turin, vài năm sau, dưới sự điều khiển của cha Ludovico  Bulla. Sau khi vị sáng lập Dòng Piémont qua đời quá sớm, nhiều tu viện Piémont đi theo cuộc cải cách. Còn về cuộc canh tân chủ yếu thánh mẫu, khai mạc ngày 2.2.1640 tại tu viện Santa Maria della Vita ở Naples, nó vẫn ở trong biên giới vương quốc Naples thôi.

Việc thống nhất luật lệ của tất cả các phong trào này được thể hiện năm 1645, khi Hiến Pháp của việc giữ luật nhặt được áp đặt cho tất cả các tu viện cải tổ của Dòng. Cùng năm đó, Hiến Pháp mới được công bố cho các nhà không cải tổ, nhằm giúp sống một đời tu bình thường. Vào lúc đó, Dòng giữ luật cũ còn khoảng ba mươi Tỉnh Dòng với 693 tu viện.

 12/ Sa mạc và ẩn viện

Dòng Cát Minh không bao giờ quên nguồn gốc ẩn tu của mình và nỗi nhớ nhung sa mạc vẫn sống động trong lòng. cha Jean Soreth đã nghĩ đến việc quy tụ vài ẩn sĩ trong một tu viện cô tịch gần Le Puy. Nhưng việc thực hiện ý định này không chắc chắn. Tu viện Montolivet gần Gênes là một nhà thuộc loại này: nhưng nó không tồn tại lâu dài.

Cuộc cải tổ của Mẹ Têrêxa đi đến việc thực hiện cụ thể, và chúng ta gặp thấy nơi đây một tu sĩ Cát Minh lỗi lạc: cha Thomas de Jésus, người thấy cần phải lập những ẩn  viện, nơi đó các tu sĩ có thể trầm mình một thời gian trong cuộc sống giống cuộc sống các ẩn sĩ Cát Minh tiên khởi. Cha Thomas de Jésus đã làm cho cha Doria chấp nhận dự án này. “Sa mạc thánh” đầu tiên được thiết lập tại Bolarque gần Pastrana (1592) và tiếp theo là các sa mạc Đức Mẹ Xuống Tuyết tại Andalousie và Las Batuecas ở Castille. Những ẩn viện khác mọc lên trong các nước, trong số đó, có Varazze ở Ý, Marlagne tại Bỉ, Czerne tại Pologne, Mannersdorf ở Áo. Nước Pháp có hai nơi: Vivors (Gironde) và Louviers (Eure). Cuộc cách mạng đã quét sạch tất cả các “sa mạc thánh”, trừ sa mạc Las Palmas ở Tây Ban Nha.

Năm 1859, ở Pháp thấy tái sinh tại Tarasteix (Hautes- Pyrénées) một ẩn viện, nhưng hai mươi năm sau lại phải bỏ. Sau thế chiến I, những Tổng Tu Nghị các tu sĩ Cát Minh cải tổ có nêu lên ước muốn xây dựng ít nhất là một “sa mạc thánh” cho các Tỉnh Dòng cùng một ngôn ngữ. “Sa mạc thánh” được lập đầu tiên tại Pháp năm 1948, tại Roquebrune-sur-Argens (Var). Tại Tây Ban Nha, “sa mạc thánh” Las Batuecas được tái thiết và một nơi nữa được thiết lập ở Hoz de Anero. Các tu sĩ cải tổ nước Ý đã duy trì một “sa mạc thánh” thứ tư tại Torre di Campiglioni gần Florence.

Trong Dòng các tu sĩ Cát Minh theo Luật cũ, cuộc cải cách Touraine cũng cảm thấy nhu cầu ấy và Hiến Pháp quy định rằng ấy Tỉnh Dòng phải có “ẩn viện” của mình. Năm 1654, Tỉnh Dòng Bỉ đã lập “ẩn viện” tại Termuylen, và Tỉnh Dòng Touraine xây “ẩn viện” của mình muộn hơn một chút tại Basses- Loges gần Fontainebleau. Vào thế kỷ XVIII, tất cả các Tỉnh Dòng Pháp và Bỉ đều có ẩn viện với ẩn sĩ của mình. Cơn lốc cách mạng đã không dung tha cho các nơi này. Ngày nay, Dòng thuộc nhánh giữ Luật cũ có vài nhóm ẩn sĩ ở Hoa Kỳ và một nhóm ở Indonésie.

13/ Các điểm truyền giáo

Tu sĩ Cát Minh thừa sai đầu tiên để lại một kỷ niệm là cha Grégoire de Sainte-Marie, người Tây Ban Nha, vào năm 1527, đã lên đường đi Yucatan với đoàn viễn chinh của FranVois Montejo. Nhưng phải chờ hơn 40 năm nữa tu viện Cát Minh đầu tiên của Tân Thế Giới mới được thiết lập tại Santa Fé ở Nouvelle Grenade. Năm 1579, Henrique, Hồng Y- Vua Bồ Đào Nha quyết định đô hộ Brazin và các tu sĩ Cát Minh đi theo với đoàn quân viễn chinh. Năm năm sau, tu viện Brazin được thành lập tại Olinda. Các tu viện ở Bahia, Santos, Rio de Janeiro và São Paulo đã nhanh chóng nối gót, nên Dòng Cát Minh ở Brazin được nâng lên hàng Bán-Tỉnh Dòng. Năm 1685, nó được tách làm đôi, để lập thành hai Dòng thuộc địa phận (vicariats) độc lập, Tỉnh Dòng Rio de Janeiro với sáu tu viện và Tỉnh Dòng Bahia-Pernambuco với bảy nhà. Năm 1615, việc thành lập một tu viện tại São Luis là nguồn gốc của địa phận Maranhão. Nhưng năm 1855, Dom Pedro II đã phá hủy Dòng Cát Minh Brazin khi ra lệnh đóng cửa các tập viện của tất cả các Dòng tu. Bản Tuyên Ngôn nền Cộng Hòa năm 1889 đã trả lại tự do cho các tu sĩ. Chỉ có tám tu sĩ Cát Minh ngoài 70 tuổi còn sống sót. Với sự trợ giúp của các Tỉnh Dòng Tây Ban Nha và Hà Lan, họ tái thiết Dòng Cát Minh theo luật cũ tại Brazin với hai Tỉnh Dòng thịnh vượng.

Năm 1646, hai tu sĩ của cuộc cải cách xứ Touraine đã xuống một tàu Pháp để đi Antilles. Nhờ sự tiếp viện từ Pháp, các cha đã Phúc Âm hóa xứ Guadeloupe, Martinique và một phần đảo Haiti và Cayenne. Nhưng cuộc Cách Mạng đã chấm dứt những cuộc truyền giáo ấy. Năm 1923, các tu sĩ Cát Minh theo luật cũ đã lập một điểm truyền giáo tại Indonésie, ngày nay rất phồn thịnh và sau đó, một điểm truyền giáo khác tại Philippines. Những Tỉnh Dòng khác đã bắt đầu thành lập điểm truyền giáo ở Rhodésie và tại nhiều xứ Châu Mỹ La Tinh. Các nữ tu Cát Minh theo luật cũ đã lập những Đan Viện ở Indonésie, Philippines và Zaire. Khi thiết lập cuộc cải tổ của người, thánh Têrêsa Avila đã cho đời sống chiêm niệm một hướng tông đồ rõ rệt và cơ bản (CP 1). Người chấp nhận cho cha Gratien gởi tu sĩ đến Congo, nơi mà, sau hai lần thất bại, điểm truyền giáo này trở nên phồn thịnh nhanh chóng kể từ năm 1584. Năm trước đó, sau những bàn cãi sôi nổi giữa các ẩn sĩ hung hăng và các thừa sai nhiệt thành, Tu Nghị ở Almodòvar đã chấp nhạn các điểm truyền giáo, với điều kiện gìn giữ được lý tưởng chiêm niệm. Những tu sĩ Cát Minh khác đến Mexique, nơi mà, chẳng bao lâu, một Tỉnh Dòng đông đúc được phát triển. Nhưng việc bầu cha Nicolas de Jésus-Marie Doria làm Giám Tỉnh năm 1585, đã chấm dứt đột ngột nỗ lực truyền giáo của các tu sĩ Dòng Cát Minh Tây Ban Nha, chỉ mình Tỉnh Dòng Mexique còn sống sót thôi.

Hội dòng Ý tiếp tục sự nghiệp. Tổng Tu Nghị đầu tiên của Tỉnh Dòng này (1605) đồng thanh chấp nhận các điểm truyền giáo. Nhà nghiên cứu lỗi lạc nhất của Dòng Cát Minh Têrêxa là cha Thomas de Jésus, người có sáng kiến về các “sa mạc thánh”. Một hôm, nhân cử hành Thánh Lễ tại Las Batuecas, bỗng người cảm thấy bừng lên nhiệt tình truyền giáo khôn nguôi. Từ bỏ mọi sự để sang Ý, cha được sai đi, không phải Congo mà sang Bỉ. Chính nơi đây mà người viết quyển chuyên luận của người “De procuranda salute omnium Gentium” (Về việc phải làm cho mọi chư dân được rỗi linh hồn), đã trở thành sách giáo khoa chính thức của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin. Sau khi bị giam lâu ngày tại Tunis, năm 1599, cha Jérôme Gratien xin Đức Giáo Hoàng Clément VIII cho thành lập một Thánh Bộ các Hồng Y lo về Phúc Âm hóa người ngoại giáo, dưới danh hiệu “De propaganda fide”, bị hủy bỏ hai năm sau. Nhưng Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm liên tiếp hai cha Cát Minh cải tổ làm tổng quản lý các nơi truyền giáo. Nhờ những lời khẩn nài của cha Dominique de Jésus-Marie, vị tổng quản lý thứ hai, Thánh Bộ Truyền Bá ĐứcTin được tái lập vĩnh viễn ngày 6.1.1622.

Năm 1607, những tu sĩ Cát Minh cải tổ Ý đến Ba Tư, nơi truyền giáo đầu tiên của họ, họ định cư tại Ispahan. Những cuộc lập Dòng khác nối tiếp nhau tại Ormuz trên Vịnh Ba Tư, rồi tại Basrah ở Lưỡng Hà Địa. Sau nhiều chuẩn bị lâu dài, một tu viện Cát Minh cải tổ được khánh thành tại Baghdad, năm 1731. Ormuz là điểm phát xuất những nơi truyền giáo tại Ấn Độ. Từ năm 1613, các tu sĩ Cát Minh cải tổ định cư trước hết ở phía Bắc, nơi nhiều tu viện từ từ mọc lên. Tu viện quan trọng nhất là tu viện ở Bombay (1717), sống một trăm năm thật mãnh liệt. Năm 1620, các tu sĩ Cát Minh cải tổ đến Goa, và giữa thế kỷ XVII, họ được giao một điểm truyền giáo ở Malabar, bên cạnh các Kitô hữu của thánh Thomas. Cha Prosper du Saint- Esprit, sau khi lập một nhà tại Alep xứ Syrie, đã khó nhọc lắm mới định cư được ở Núi Cát Minh năm 1631, nơi mà ngày nay, các tu sĩ Cát Minh cải tổ vẫn còn một tu viện. Các điểm truyền giáo tại Haifa, núi Liban và Tripoli ở Syrie cũng có vào thời đó. Nhưng hầu hết các nhà ấy đều bị phá hủy vào thời Cách Mạng, rồi được tái thiết vào thế kỷ XIX.

Các nơi truyền giáo phồn thịnh nhất của các cha Dòng Cát Minh cải tổ là các điểm ở Malabar, được giao cho các Tỉnh Dòng Navarre và Bỉ. Một Hội Dòng nam, được thành lập cho người bản xứ, được chuyển đến Dòng đầu tiên ngày 25.3.1957. Các tu sĩ Cát Minh cải tổ toàn người Ấn Độ họp thành Bán- Tỉnh Dòng Manjummel. Tỉnh Dòng phát triển tốt đẹp đến nỗi tại Malabar hôm nay, hai Tỉnh Dòng đều cùng nhau đảm nhiệm các điểm truyền giáo. Các nữ đan sĩ Cát Minh, đã thành lập tại Ấn Độ, sau Đan Viện đầu tiên ở Mangalore (1870), mười một nhà khác. Còn tại Malabar, nhiều Hội Dòng Cát Minh thuộc nghi lễ syri-malabar và latinh có hàng trăm tu sĩ nam nữ. Những nơi truyền giáo khác ngày nay được các cha Dòng Cát Minh cải tổ đảm nhận tại nhiều nước Châu Mỹ La Tinh, Châu Á, Châu Phi và Châu Đại Dương. Các nữ đan sĩ Cát Minh cải tổ hiện nay có hơn 70 Đan Viện ở các miền truyền giáo mà Đan Viện đầu tiên do Dòng Cát Minh Lisieux sáng lập năm 1861 tại Sài gòn, Việt Nam.

Đức Giáo Hoàng Piô XI đã nhân danh Giáo Hội nhìn nhận hiệu lực tính việc tông đồ âm thầm của các tu sĩ chiêm niệm, vì thế, qua Sắc Lệnh ngày 14.12.1927, ngài đặt thánh Têrêsa Lisieux làm quan thầy tất cả các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh FranVois Xavier.

14/ Các văn sĩ, từ thế kỷ XVI – XX

(Ở đây, chúng tôi nhấn mạnh những gì liên quan đến nước Pháp)

Hai vị tiến sĩ thần bí: thánh Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá, là những nhà văn thiên tài, trong số các đại văn hào cổ điển Tây Ban Nha. Qua các tác phẩm thần bí của các ngài bổ túc cho nhau, các ngài đã truyền đạt cho Dòng Cát Minh cải tổ tinh thần mà Dòng vẫn còn sống đến ngày nay. Bản dịch tiếng Pháp đầu tiên các tác phẩm của thánh Têrêsa, do cha Jean de Quintanadoine de Brétigny, được in tại Paris năm 1601. Đợt xuất bản đầu tiên toàn bộ các tác phẩm của thánh Gioan Thánh Giá, lạ thay, đã xuất bản không phải bằng tiếng Tây Ban Nha, nhưng là cải biến theo tiếng Pháp do René Gaultier, năm 1621.

Năm 1581, các tu sĩ Cát Minh cải tổ đã sáng lập tại Alcala một trường Cao Đẳng Triết Học, đã cho Giáo Hội những Complutenses và tại Salamanque một trường Cao Đẳng Thần Học, nơi mà các Salmanticenses dạy. Đây là năm tu sĩ Cát Minh cải tổ trong số các nhà bình luận giỏi nhất về thánh Thomas: Bốn người Tây Ban Nha và một người Pháp, Blaise de la Conception  – nổi tiếng nhất. Antoine de la Mère de Dieu đã thuộc về cả hai nhóm. Họ soạn thảo một Cursus theologicus hoàn chỉnh, mất cả một thế kỷ (1624-1724) để xuất bản. Những vị Tây Ban Nha khác đã khởi xướng “trường phái thần bí” các tu sĩ Cát Minh cải tổ: Cha Jean de Jésus-Marie (Aravalles) cùng với hai vị khác soạn quyển “Instruction des novices” (Huấn đức cho tập sinh) đầu tiên của cuộc cải cách. Cha Joseph de Jésus-Marie (Quiroga) là người đầu tiên viết tiểu sử và bình luận thánh Gioan Thánh Giá. Cha Jean de Jésus-Marie (ở Calahorra) là tác giả quyển “Thần học thần bí” và cha Thomas de Jésus, nhà nghiên cứu vĩ đại về truyền giáo cũng đã viết một chuyên luận về chiêm ngắm Thiên Chúa. Cha Philippe de la Trinité, người Pháp, hệ thống hóa thần học thần bí.

Trong số các văn sĩ Pháp thế kỷ XVII, đặc biệt ta phải kể tu sĩ Laurent Chúa Phục Sinh, Thầy trợ sĩ thuộc tu viện đường Vaugirard, và cha Cyprien de la Nativité – dịch giả xuất sắc hai vị tiến sĩ thần bí – mà Paul Valéry đã xem như “một trong những thi sĩ hoàn hảo nhất nước Pháp”. Người cũng là một tác giả tu đức rất tinh tế: “Nguyện ngắm *… là một thực tập mến yêu và khiêm nhượng, và nguyện ngắm nên, là một sự tự hạ thẳm sâu và yêu mến tột độ”.

Cha Jean de St. Samson là văn hào tu đức quan trọng nhất trong các văn hào tu đức vĩ đại của Dòng Cát Minh, với chuyên luận lớn là: “Le vray esprit du Carmel” (Tinh thần Dòng Cát Minh chân chính). Sớm bị quên lãng, nhà thần nhiệm vĩ đại này đã được tái phát hiện ở thế kỷ chúng ta. Các môn đệ của người là Maur de l’Enfant-Jésus, Léon de Saint-Jean và các tác giả sách “Méthode claire et facile pour bien faire l’ oraison mentale et pour s’exercer avec fruit en la présence de Dieu” (Phương pháp rõ ràng và dễ dàng để nguyện ngắm và tập hiện diện với Thiên Chúa cách hữu hiệu) – các cha Bernard de Sainte-Madeleine và Marc de la Nativité – tiếp tục sự nghiệp của người, cũng như cha Dominique de Saint – Albert. Cha Dominique viết: “Dường như tôi biết thế nào là sự thánh thiện, nó không như người ta thường nghĩ đâu; dù sao, tôi nghĩ đó là người ẩn dật nhất trên đời này và đau khổ hơn trong tình yêu và vì yêu”. Cha Michel de Saint Augustin viết nhiều chuyên luận tu đức. Người nói: “Việc đi vào trong Thiên Chúa phải đi đôi với việc thoát khỏi bản thân và mọi thọ tạo”. Tác phẩm quan trọng nhất của người là “La vie marieforme” (Sống theo Đức Maria), phần lớn được cảm hứng bởi Marie de Sainte-Thérèse, đánh dấu một đỉnh cao trong khoa thần bí của Dòng  Cát Minh. Ở Tây Ban Nha, cha Michel de la Fuente là một văn sĩ tu đức sáng giá. Cũng có vài sử gia trong Dòng Cát Minh theo luật cũ, trong số đó có cha Daniel de la Vierge Marie (1615-1678). Hai tập sách của người “Vinea Carmeli và Speculum Carmelitanum (Vườn nho Cát Minh và Tấm gương Dòng Cát Minh) vẫn giữ tầm quan trọng của chúng đối với lịch sử Dòng Cát Minh. Cha Cosme de Villiers đã cho xuất bản Bibliotheca Carmelitana (Tủ sách Cát Minh) đồ sộ tại  Orléans năm 1752.

Sau những tàn phá của cuộc Cách Mạng, một việc cải cách văn học được loan báo vào cuối thế kỷ XIX trong hai nhánh Dòng Cát Minh. Lúc đó, Thiên Chúa đã giao cho chị Têrêxa Lisieux – “Vị thánh vĩ đại nhất của thời hiện đại” (Lời Đức Giáo Hoàng Piô X) một sứ mạng có chiều kích thế giới. Thánh nữ phải nhắc lại cho thời đại chúng ta, trong ánh sáng tinh tuyền của Tin Mừng, vị trí ưu tiên của lòng mến đầy tin tưởng, tinh thần thơ ấu và khó nghèo thiêng liêng. một nữ tu trẻ Dòng Cát Minh ở Dijon, chị Élisabeth Chúa Ba Ngôi, sẽ có ảnh hưởng thiêng liêng rộng lớn và sâu sắc. Năm 1933, một triết gia người Đức, Edith Stein (Têrêxa Bênêdicta) vào Dòng Cát Minh ở Cologne. Các tác phẩm lớn của chị là Etre fini và Etre éternel (Hữu thể hữu hạn và hữu thể vĩnh hằng); Sience de la Croix (Khoa học Thập Giá). Tại Tây Ban Nha, cha Silverio de Sainte-Thérèse đã để lại sự nghiệp văn chương thật lớn lao, trong đó có những phê bình các tác phẩm của thánh Têrêsa Avila và thánh Gioan Thánh Giá.

Tại Pháp, cha Bruno de Jésus-Marie (1892-1962), sử gia trứ danh và là người viết tiểu sử thánh Gioan Thánh Giá, được bổ nhiệm làm Giám Đốc Etudes carmelitaines (Tạp chí nghiên cứu thuộc Dòng Cát Minh) năm 1930, đã sớm hướng Tạp Chí này về những vấn đề tâm lý tôn giáo. Người cũng là vị xúc tiến Hội Nghị Quốc Tế về đề tài này được tổ chức tại Avon. Cha FranVois de Sainte-Marie (1910-1961) đã cho xuất bản năm 1957, chú giải Thủ Bản Tự Thuật của thánh Têrêsa H.Đ.G. và năm 1961, chân dung đích thực của thánh nữ. Là tác giả tu đức có giá trị, cha đã sáng lập bộ sưu tập sách La Vigne du Carmel (Vườn nho Dòng Cát Minh), và đã phải ngưng lại, vì cái chết quá sớm của người. Năm 1963, sử gia Pierre Sérouet bắt đầu một loạt sưu tập Cát Minh khác dưới tên Présence du Carmel (Sự hiện diện của Dòng Cát Minh), trong đó nhấn mạnh đến khía cạnh lịch sử và tư liệu hơn, mặc dù cũng có chỗ đứng của linh đạo. Cha Marie Eugène de L’Enfant Jésus cũng nổi tiếng do công trình quan trọng của cha: Je veux voir Dieu (Tôi muốn thấy Thiên Chúa). Cũng thế, cha Paul Marie de la Croix, nhờ những bình luận thiêng liêng về Cựu Ước, Tin Mừng thánh Gioan và kinh Lạy Cha. Cha Benoit-Marie Zimmerman và cha Elisée Alford nổi tiếng nhờ công trình lịch sử của các ngài. Học viện Rome thuộc các cha Cát Minh cải tổ, Teresianum, xuất bản những tác phẩm có giá trị trong nhiều lãnh vực.

Trong số các văn hào đương thời của nhánh Cát Minh theo luật cũ, ta phải kể nhà tu đức vĩ đại Titus Brandsma. Nhưng sự nghiệp của những vị ấy quan trọng nhất là về phương diện nghiên cứu lịch sử  do cha Gabriel Wessels khai mạc vào đầu thế kỷ. Viện Sử học của các cha Dòng Cát Minh cho xuất bản những nghiên cứu đáng chú ý, trong đó các tác giả danh tiếng nhất là các cha  Adrianus Staring, Otger Steggink, Ludovico Saggi và Joachim Smet, tác giả một bộ chú giải của Dòng, The Carmelites, trình bày nguồn gốc lịch sử quan trọng.

15/ Yên ổn, sa sút và hủy diệt

Sau những viễn tượng này, lẽ ra phải trở lại diễn tiến các biến cố lịch sử. Trong các thế kỷ XVII và XVIII, Dòng Cát Minh cả hai nhánh tiếp tục phát triển tương đối yên ổn, đôi khi bị xáo trộn do những cuộc chiến tranh, những tác hại của chủ nghĩa quốc gia độc lập đối với lập trường của Tòa Thánh hoặc những chia rẽ nội bộ. Nhưng đó chỉ là những đám mây mù thoáng qua thôi.

Vào thế kỷ XVII, việc “truyền giáo” bắt đầu tại Anh Quốc, Ailen và Hà Lan. Những tu sĩ Cát Minh cải tổ người Anh, được huấn luyện tại Roma và Bỉ đến lập cư tại Luân Đôn năm 1615 và sau đó định cư tại những thành phố khác trong nước Anh. Họ ở đó đến năm 1846 khi cha Brewster qua đời. Khi người ta điều tra về Dòng của cha, cha trả lời ngắn gọn: “Không có Bề Trên cũng chẳng có bề dưới, vì tôi là thành viên cuối cùng”. Đan Viện đầu tiên của các nữ đan sĩ Cát Minh người Anh được thành lập năm 1619 tại Anvers và đã hai lần di cư đến Hà Lan. Năm 1794, các đội ngũ cách mạng tiến quân, họ buộc phải dời sang Anh quốc, thừa dịp Toleration Act năm 1781. Tại Ailen, các tu sĩ Cát Minh cải tổ lập nhà năm 1625. Tỉnh Dòng thánh Patrick không hề bị gián đoạn cho đến ngày nay. Một Đan Viện nữ Cát Minh được thành lập tại Loughrea năm 1680. Tại Hà Lan, cha Vincent, Tin Lành trở lại Công Giáo đã lập một cộng đoàn tại Leyde năm 1648, cùng năm ấy, có thêm cộng đoàn ở La Haye và sau đó, cộng đoàn ở Amsterdam, cả hai cộng đoàn này đều do các cha Dòng Cát Minh Hà Lan thành lập.

Tại các nước khác ở Châu Âu, Dòng Cát Minh Têrêxa tiếp tục tăng trưởng. Khoảng năm 1780, có 10 Tỉnh Dòng và 113 Đan Viện nữ Cát Minh trong Hội Dòng xứ Tây Ban Nha, trong lúc Hội Dòng Ýgồm 14 Tỉnh Dòng, 9 ở Ý, 6 ở Pháp và 4 ở Bỉ, cũng như 169 Đan Viện nữ đan sĩ Cát Minh. Ít biến cố nổi bật trong vẻ vô vị của những thập niên này, ngoại trừ việc xuất hiện một vị thánh hoặc một ơn gọi phi thường. Như vậy, khoảng cuối thế kỷ XVII, công chúa Catherine Farnèse, con gái quận công Parme, vào Dòng Cát Minh thuộc thành phố này, ở nước Ý, chúng ta có chân phước Marie des Anges (1668-1717), là bà con với thánh Louis de Gonzague, và thánh Marguerite Thánh Tâm. Đó là hai ơn gọi gây xúc động cho triều đình: người trước kia được vua Louis XIV yêu quý, tiểu thư de la Vallière, lãnh tu phục năm 1675, tại Đan Viện đường Saint-Jacques, và bà Louise de France, con gái vua Louis XV, vào Dòng Cát Minh ở Saint-Denis năm 1770, với tên Thérèse de Saint-Augustin.

Từ năm 1640, các tu sĩ Cát Minh theo luật cũ người Bỉ, lập nhà tại Hà Lan, nhất là ở Amsterdam và Amersfoort. Sau nhiều năm chuẩn bị, các tu sĩ đầu tiên Tỉnh Dòng Touraine đã thành lập một cộng đoàn tại Luân Đôn năm 1666 và ở lại đó gần 50 năm. Tỉnh Dòng Ailen thành lập năm 1737, gồm 16 tu viện năm 1765, không bao giờ bị bỏ rơi. Tại Sicile, hai giáo dân khởi xướng cuộc cải cách Santa Maria della Scala Paradisi, gồm 8 nhà năm 1742. Nhưng vào thời kỳ này, Dòng theo luật cũ phát triển nhiều, nhất là tại Đông Âu. Năm 1686, Tỉnh Dòng Nga tách rời khỏi Tỉnh Dòng Ba Lan và thế kỷ sau đó, các Tỉnh Dòng Lithuanie và Bôhème ra đời. Dòng Cát Minh Brazin đạt mức cao nhất vào năm 1750 với 4 Tỉnh Dòng và 566 tu sĩ. Lúc đó, Dòng Cát Minh Gốc có 782 nhà, chia làm 46 Tỉnh Dòng.

Thế kỷ văn minh không thuận lợi cho tinh thần tu trì. Chủ nghĩa thực nghiệm của những nhà duy lý và triết gia thấu đạt đã thâm nhập vào tận các tu viện, làm lu mờ lý tưởng và tạo điều kiện thuận lợi cho sự buông thả. Cơn giông tố sắp biến đổi Châu Âu và tàn phá Giáo Hội đã bắt đầu gầm thét. Ở Pháp, ủy ban các Dòng tu đã hủy bỏ nhiều tu viện. Vua Joseph II nước Áo thanh toán 600 tu viện rồi đóng cửa tất cả các Đan Viện nữ. Nhiều nước khác noi theo gương này. Tại Pháp, sau khi đình chỉ việc tuyên khấn Dòng, Quốc Hội đã bãi bỏ vô điều kiện tất cả các tu hội năm 1790. Một cuộc bách hại đẫm máu đã nổi lên. Nếu có những kẻ bội phản thì cũng không thiếu những chứng nhân của Đức Kitô. Những chứng tá lừng danh nhất là 16 nữ đan sĩ Dòng Cát Minh ở Compiègne, thêm vào đó có 7 nam tu sĩ trong các thành phố khác. Trong số các cha Dòng Cát Minh Gốc, nạn nhân nổi tiếng nhất là cha Simon Pannetier ở Bordeaux, bị chém đầu cùng với hai con thiêng liêng của cha, Thérèse Thiac và Anne Bernard, Dòng Ba Cát Minh. Cuối thế kỷ XVIII, không còn gì cả trong số 79 tu viện Cát Minh cải tổ, và trong số 129 cộng đoàn tu sĩ Cát Minh Gốc tại Pháp, không một Đan Viện nào sống sót cả.

Tại Bỉ, quân Cách Mạng cũng đóng cửa các tu viện, và các cuộc hành quân của Napoléon cũng có một hậu quả như thế ở nước Đức, Bavière, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Ý, nơi mà các cuộc đấu tranh để thống nhất đất nước hoàn tất việc phá hoại.

16/ Canh tân

Nhưng Dòng Cát Minh không bị tiêu diệt. Cuộc bách hại đã thanh luyện, ngọn lửa âm ỷ dưới đống tro tàn. Mẹ Camille de Soyecourt dũng cảm, nữ tu Dòng Cát Minh Paris đường Grenelle đã thực hiện cố gắng tái thiết đầu tiên. Năm 1797, Mẹ đã mua lại tu viện cũ các cha Dòng Cát Minh đường Vaugirard. Nhưng nó quá rộng đối với cộng đoàn của Mẹ nên Mẹ đã nhượng cho Đức Cha Affre để lập tại đó Học Viện Công Giáo hiện nay. Đối với các nữ tu con cái của Mẹ, Mẹ cho sắp xếp một Đan Viện ở thông lộ Saxe. Mẹ Bathilde Bề Trên Dòng Cát Minh ở Bordeaux đã thuyết phục một cha Dòng Cát Minh Tây Ban Nha, đưa con cái thánh Têrêsa vào nước Pháp. Một tập viện được thành lập tại Broussey năm 1840 và về sau, một tập viện khác tại Bordeaux. Còn nhiều tu viện nữa được thiết lập, nhất là sau khi Hermann Cohen, nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng, từ Do Thái trở lại Công Giáo và vào Dòng Cát Minh; người là học trò và bạn của nhạc sĩ Liszt. Người trở thành một nhà đại chiêm niệm: cha Augustin Marie Thánh Thể. Năm 1864, các cha Dòng Cát Minh cải tổ lập nhà tại Paris, nơi mà cha Hyacinthe Loyson, vị thuyết giảng của Vương Cung Đức Bà, làm Bề Trên. Việc người rút lui vào năm 1869 gây tai tiếng rầm rộ. Các nữ đan sĩ Cát Minh cũng nhân lên các nhà thành lập trên đất Pháp. Năm 1838, Dòng Cát Minh ở Poitiers lập nhánh tại Lisieux, nơi mà, 50 năm sau, Thérèse Matin vào tu lúc 15 tuổi. Nữ tu Marie de Saint Pierre thuộc Đan Viện ở Tours truyền bá lòng tôn sùng Nhan Thánh đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của Thánh Têrêsa H.Đ.G. Người viết: “Nhan Thánh Chúa là quê hương duy nhất của con”. Các tu sĩ Cát Minh cải tổ tại Pháp ngày nay quy tụ thành hai Tỉnh Dòng: Paris và Avignon-Aquitaine; và các nữ đan sĩ Cát Minh gồm 120 Đan Viện.

Ở Bỉ và Hà Lan, Dòng Cát Minh Têrêxa phát triển nhanh chóng kể từ năm 1830. Nhờ Đức Hồng Y Wiseman, các tu sĩ Cát Minh cải tổ, dưới sự hướng dẫn của cha Augustin Marie Cohen, tái lập nhà tại Luân Đôn, để từ đó họ di cư đến các thành phố khác và sau này sang Ailen, Califonie và Úc. Nữ đan viện Cát Minh ở Notting Hill (Luân Đôn) được sáng lập năm 1878 do Đan Viện có một Bề Trên người Pháp điều khiển một thời gian dài, đó là Mẹ Marie de Jésus. Từ Đan Viện này phát xuất đa số các Đan Viện nước Anh. Tại Áo và Đức, Dòng từ từ tổ chức lại trong thế kỷ XIX. Năm 1899, một nữ Đan Viện Cát Minh được xây dựng tại Cologne. Ba mươi bốn năm sau, Đan Viện này nhận vào một thỉnh sinh nổi tiếng là nhà triết học Edith Stein.

Ở Tây Ban Nha, mãi đến năm 1875, Dòng Cát Minh mới có thể phục hưng được. Bấy giờ, Đức Giáo Hoàng Piô IX ra Sắc Lệnh ngày 12.2 cùng năm ấy, đã thống nhất vĩnh viễn Dòng Cát Minh cải tổ. Về sau, Dòng Cát Minh Tây Ban Nha phát triển mạnh: ngày nay Dòng có 6 Tỉnh và 149 nữ Đan Viện.

Ở Ý, cuộc canh tân đã bắt đầu sau khi đất nước được thống nhất về chính trị, năm 1870. Ngày nay các tu sĩ họp thành 6 Tỉnh Dòng và các nữ đan sĩ có 53 Đan Viện. Tại Thụy Sĩ, có 3 nữ Đan Viện Cát Minh: Pâquier ở Gruyère (1921), Locarno ở Tessin (1947) và Đan Viện Develier trong vùng Jura Thụy Sĩ (1980). Các cha nhánh cải tổ đã lập một huynh đoàn tại Fribourg. Tại Hoa Kỳ, Dòng Cát Minh Têrêxa rất phồn thịnh. Nữ Đan Viện Cát Minh đầu tiên được thành lập do các nữ đan sĩ người Anh bị đuổi khỏi Hà Lan, năm 1790. Từ cuối thế kỷ XIX, các Dòng nữ Cát Minh nhân lên tại Hoa Kỳ. Hiện nay có 64 Đan Viện. Các nam tu sĩ Cát Minh cải tổ đã thành lập tại đó hai Tỉnh Dòng, một ở Oklahoma và một ở Washington.

*   *   *

Mặc dù chỉ thiểu số tu sĩ còn sống sót sau cơn biến động, nhưng Dòng theo luật cũ đã duy trì đủ sức sống để có được một sự trẻ trung mới mẻ. Trong cuộc canh tân này, các tu sĩ Cát Minh Hà Lan đã đóng một vai trò thiết yếu. Khoảng giữa thế kỷ XIX, những thời kỳ tốt đẹp hơn bắt đầu xuất hiện. Tu viện Boxmeer ở Hà Lan, sắp được xem như trung tâm của Dòng Cát Minh Gốc, và tu viện Straubing ở Đức hoạt động mãnh liệt để phục hưng việc giữ luật. Khi cha Savini làm Bề Trên Tổng Quyền năm 1863, cha đã giao cho cha Bề Trên tu viện Boxmeer lập một cộng đoàn ở Anh Quốc và đã gởi cha Cyrille Knoll sang Hoa Kỳ với sứ vụ ấy. Tu viện Leavenworth, tiếp theo là tu viện ở Cumberland lập nên Tỉnh Dòng Chicago và Canada phồn thịnh. Trễ hơn một chút, các tu sĩ Ailen lập nhà tại New York. Đó là khởi điểm của một Tỉnh Dòng Mỹ thứ hai.

Ở Tây Ban Nha, từ năm 1880, các tu sĩ Cát Minh Gốc bắt đầu thêm nhân sự trong nhiều tu viện của họ, nhưng trong cuộc nội chiến (1936-1939) suýt làm sụp đổ hết. Cũng nhờ sự trợ giúp của nước Hà Lan, về sau này Dòng lại được phát triển tại Tây Ban Nha, ngày nay ở đó 4 địa hạt của tu sĩ và 24 nữ Đan Viện Cát Minh không cải tổ. Tại Ý, 4 Tỉnh Dòng được tái thiết, và các nữ đan sĩ giữ Luật Dòng cũ gồm 10 Đan Viện.

Ngay từ đầu thế kỷ XX, các tu sĩ Cát Minh Hà Lan cũng góp phần làm sống lại các tu viện ở Ba Lan và Áo, đồng thời đảm nhận Tỉnh Dòng Brazin là Rio de Janeiro, hiện nay là một trong những Tỉnh Dòng quan trọng nhất của Dòng. Từ giữa năm 1920-1930, nhánh theo luật Nguyên Thủy đã tăng cường mạnh tại Hà Lan, dưới sự đôn đốc của ba nhân vật sáng giá: Titus Brandsma, cố vấn Tỉnh Dòng; Cyprianus Verbeek, Giám tỉnh và cha Hubert Driessen, tổng quản lý. Về sau, có những tu viện mới của các cha Cát Minh và các nữ Đan Viện Cát Minh xuất hiện ở Đức và Brazin. Năm 1926, có các tu sĩ Ailen đến Anh Quốc và định cư tại đó, nơi họ thiết lập hai tu viện. Mười năm sau, có thêm một tu viện nữa ở xứ Galles và năm 1949, các tu sĩ Cát Minh đã khéo léo mua lại và đem nhân sự đến ở một trong những tu viện đầu tiên của Dòng: Aylesford, được thành lập khoảng 1242. Việc tái sở hữu này được xem như một dấu hiệu vẻ vang tái thiết việc giữ luật Dòng cũ.

Một phần lớn cuộc canh tân Dòng Cát Minh cũng nhờ Tân Hiến Pháp ban hành năm 1904 và phần lớn thích hợp với Hiến Pháp giữ Luật nhặt cũ được cuộc cải cách Touraine lấy lại. Năm 1935, Tòa Thánh đã thống nhất và phê chuẩn pháp chế của các nữ đan sĩ Cát Minh không cải tổ.

Còn vài nhân vật lỗi lạc đáng đặc biệt ghi nhớ: Thầy Jean Brunner (1842-1901), trợ sĩ ở Straubing, nổi bật do một đời sống nguyện ngắm sâu sắc: tất cả các bổn phận của Thầy dù nhỏ nhặt, Thầy cũng thi hành trước Nhan Thánh Chúa. Tại Hà Lan, ta gặp cùng thời với nhà đại chiêm niệm là nữ tu Joséphine Koning, Dòng Cát Minh ở Boxmeer (1863-1931), cha Titus Brandsma. Cha Gioan Thánh Giá Brenninger, tu sĩ Cát Minh Đức, làm trợ tá trung ương lâu năm; nghiêm khắc đối với bản thân, người biết làm cho kẻ khác được giàu có nhờ kho tàng của con tim người. Nguyện ngắm là nền tảng cuộc sống của người, biểu hiệu một sự trung thành bền bỉ.

*   *   *

Bất chấp các thử thách mà Giáo Hội và thế giới trải qua, bất chấp chiến tranh và sự phát triển những ý thức hệ độc tài, ngay giữa những bấp bênh và nỗi khốn đốn của thời đại chúng ta, Dòng Cát Minh thật sống động trong cả hai nhánh, theo đuổi con đường của mình trong tinh thần của ngôn sứ Elia và dưới sự bảo trợ của Đức Maria.

(Chú thích: Sơ lược vài dữ kiện thống kê:

* Dòng Cát Minh Nguyên Thủy: lối 2.000 tu sĩ, 270 nhà, 23 Tỉnh Dòng; khoảng 900 nữ đan sĩ, 60 Đan Viện.

* Dòng Cát Minh Cải Tổ: lối 2.500 tu sĩ, 430 nhà, 37 Tỉnh Dòng; hơn 13.000 nữ đan sĩ, 820 Đan Viện).

. II.Những nhân vật gương mẫu trong Kinh Thánh

Ngay từ nguồn gốc lịch sử, thậm chí khi Dòng Cát Minh sinh ra cách mầu nhiệm, Dòng tỏ ra gắn bó mật thiết với hai nhân vật Thánh Kinh: đó là Ngôn sứ Elia, được xem như tổ phụ tinh thần, và Mẹ Thiên Chúa đã trở thành “Quan Thầy” của Dòng, trong đó các thành viên rất sớm được gọi là “tu sĩ của Đức Mẹ Núi Cát Minh”. Thay thế cho một vị sáng lập nổi tiếng làm gương mẫu cho con cái mình, ngôn sứ Elia và Đức Nữ Trinh Maria đã in dấu ấn sâu đậm trên linh đạo và đời sống Dòng Cát Minh. Chúng tôi sẽ nhắc đến các đấng không phải theo thứ bậc phẩm giá của các ngài, nhưng thể theo vị trí của các ngài trong thời gian tương ứng với những lựa chọn theo thứ tự thời gian của Dòng mới ra đời.

  1. Ngôn sứ Elia

Từ thời Thượng Cổ, Thánh Địa đã là quê hương của nhiều vị tìm kiếm Thiên Chúa: ngôn sứ, ẩn sĩ, đan sĩ. Trên núi Cát Minh, việc tôn kính ngôn sứ Eia vẫn sống động qua các thế kỷ. Bằng chứng là những tường thuật du hành từ thời Byzantine. Các Giáo Phụ Hy Lạp và các tổ phụ sa mạc đã xem ngôn sứ Elia như là tổ phụ và gương mẫu của phong trào ẩn tu, rồi đời đan tu phát sinh từ đó. “Tất cả những ai khấn sống cô tịch đều phải xem ngôn sứ Elia như là Lề Luật và Gương Mẫu”, thánh Athanase nói thế (PVT 43). Và thánh Jérôme nói: “Người thứ nhất trong chúng ta là ngôn sứ Elia. Elisée thuộc về chúng ta, những vị hướng dẫn chúng ta là con cái các ngôn sứ, cư ngụ nơi thôn dã và trong sa mạc” (PVT 43). Và theo Cassien, các vị tu rừng là: “những kẻ bắt chước thánh Gioan Tẩy Giả … ngôn sứ Elia và Elisée” (PVT 43)

Truyền thống ngôn sứ này lên đến ngôn sứ Elia đặc biệt sống động trên Núi Cát Minh, tại nơi ngày nay gọi là Wadi ‘ain es – Siah. Ngay từ cuối thế kỷ VI, người ta đã xác định tại đó ngôn sứ Elia đã gặp bà góa xứ Sulam (2V 4,25). Vào thời Trung cổ, người ta tôn kính ở đó hang động của Elia, khe suối của Elia, nơi cư trú của Elisée và chỗ ở của con cái các ngôn sứ. Vào thời Byzantine, nhất là thế kỷ V và VI, Núi Cát Minh đã là trung tâm tấp nập đời sống ẩn tu và đan tu, được biểu hiện trước hết trong hình thức các tu viện (laures).

Vậy là, đầu thế kỷ VIII, những ẩn sĩ Latinh đến ở nơi uy quyền thế lực của ngôn sứ Elia, là Wadi ‘ain es – Siah, họ nhập vào một truyền thống lâu đời và có lý để cho mình là thừa kế các ẩn sĩ Hy Lạp, thế kỷ V và VI. Cha Nicolas người Pháp, làm Bề Trên Tổng Quyền giữa thế kỷ VIII, đã nghĩ đến các vị này và các Giáo Phụ Tân Ước, khi nói đến “các giáo phụ của chúng ta” hoặc “các bậc tiền bối của chúng ta” trong sách “Flèche de feu” (Tên lửa) của người. Ta có thể ngạc nhiên rằng các tu sĩ Cát Minh, thời ấy, không bằng lòng với sự tiếp nối thiêng liêng này.

Nhất là từ đầu thế kỷ XIV, được hình thành trong Dòng một huyền thoại lý thú. Người ta tìm cách chứng minh rằng, từ thời ngôn sứ Elia, trong Dòng Cát Minh, có một dòng dõi pháp lý liên tục gồm ẩn sĩ và đan sĩ. Vì thế, người ta tin rằng nguồn gốc của Dòng tiến xa đến Cựu Ước. Tiêu đề đầu tiên của Hiến Pháp năm 1281 – phản ánh tư tưởng các tu sĩ Cát Minh tiên khởi – đã nói đến sự kế tục không gián đoạn “các tổ phụ trong Cựu Ước cũng như Tân Ước” sẽ sống trên Núi theo cách thức ngôn sứ Elia và Elisé. Các tu sĩ Cát Minh thời ấy xem mình như là mắt xích cuối cùng của dây xích lâu đời này. Vậy truyền thống ngôn sứ Elia và các môn đệ của người thời Cựu Ước, “con cái các ngôn sứ”: thời kỳ Kitô giáo Hy Lạp; và thời kỳ Latinh tương ứng với các tu sĩ Cát Minh thực sự.

Tất cả các chứng tích lịch sử đầu tiên về vấn đề nguồn gốc Dòng có từ thời xa xưa không mấy chính xác. Để giải quyết bất lợi này, Philippe Ribot, tu sĩ Cát Minh Tây Ban Nha, vào cuối thế kỷ XIV, đã tìm cách sắp xếp lại cho có trật tự lịch sử lâu dài của Dòng Cát Minh bằng cách xuất bản “Les dix livres qui traintent de l’origgine des carmes et de leurs acte principaux” (Mười quyển sách nói về nguồn gốc và những công việc chính yếu của các tu sĩ Dòng Cát Minh). Ribot gán cho những nhân vật vĩ đại trong quá khứ việc soạn ra tất cả các sách đó; một số nhân vật có tính cách lịch sử, còn những nhân vật khác hoàn toàn bịa đặt. Như vậy, một trong những văn phẩm này: L’Institution des premiers moines (Dòng các đan sĩ tiên khởi) quyển I giả thiết là Luật Dòng đầu tiên của tu sĩ Cát Minh được gán cho Jean, Thượng Phụ Giêrusalem, đương thời với thánh Jérôme. Nhưng ngày nay có lẽ bản văn này do chính Philippe Ribot viết ra! Vậy tại sao lại nhấn mạnh trên những “sự kiện” không thể nào bênh vực được về mặt lịch sử, nhằm tăng uy tín của Dòng ? Một đàng, huyền thoại này có thể được xem như một “sự bù trừ”, vì các tu sĩ Cát Minh thế kỷ XIV ý thức mãnh liệt mình thuộc về một Dòng mà sự hiện hữu còn bấp bênh, thậm chí còn bị đe dọa nữa. Đàng khác, việc Hội Dòng ra đời vẫn bí ẩn: không ai biết vị sáng lập Dòng. Vì các tu sĩ Cát Minh định cư trong một cảnh trí tuyệt vời thích hợp với ngôn sứ Elia, vậy tại sao không xem ngôn sứ Elia như là vị sáng lập “pháp lý” của họ, theo cách thánh FranVois đối với Dòng Phan Sinh, chẳng hạn ? Vả lại, điều này sẽ cho phép họ quy chiếu về một truyền thống đan tu còn xưa hơn truyền thống của các Dòng tu khác nữa. Trong lúc Cassien đưa việc thiết lập cơ chế đan tu lên tận thời các thánh tông đồ, các tu sĩ Cát Minh lại đưa nó lên cao hơn nữa, trong Cựu Ước, với ngôn sứ Elia.

Tuy nhiên, “Luật Dòng của Thượng Phụ Giêrusalem, Jean”, chỉ là một “huyền thoại” về phương diện lịch sử, lại mang tính cách chân thật sâu sắc về mặt thiêng liêng. Bản văn này trung thành lấy lại giáo huấn của tổ phụ sa mạc tương ứng với khát vọng các tu sĩ Cát Minh. “Nguồn gốc của đời tu này, chỉ thuộc về kinh nghiệm thôi… Elia, vị ngôn sứ này của Thiên Chúa… người đầu tiên… đã bắt đầu sống một đời ẩn tu và ngôn sứ theo linh hứng và lệnh truyền của Chúa Thánh Thần. Trong đời sống này, chúng ta phân biệt hai cùng đích: một cùng đích ta đạt được nhờ công lao của chúng ta và việc thực thi nhân đức với sự trợ giúp của ơn Chúa: hiến dâng cho Thiên Chúa con tim thánh thiện và sạch mọi vết nhơ hiện tại của tội lỗi. Cùng đích kia của đời sống này được đề nghị với chúng ta do bởi ơn nhưng không của Thiên Chúa: là nếm một cách nào đó trong lòng chúng ta, cảm nghiệm trong tâm trí chúng ta, sức mạnh sự hiện diện của Thiên Chúa và sự ngọt ngào của vinh quang Thiên Chúa, chẳng những sau khi chết, nhưng ngay cả đời này nữa” (PVT 11). Thậm chí, cha Titus Brandsma còn nói: “Không bao giờ, trong một dòng tu, một quyển sách nào nói lên cùng đích, mà các thành viên của họ phải hướng đến, ơn gọi sống đời thần nhiệm được diễn tả cách rõ ràng đến thế”.

Elia, vị ngôn sứ nhiệt thành luôn luôn hiện diện trước Nhan Thánh Chúa (1V 17, 1) nghe Gia vê đi ngang qua trong một làn gió nhẹ hiu hiu (1V 19,12) và bừng cháy lửa nhiệt tình triệt để đối với Giavê các Đạo Binh (1V 19,10) có thể thực sự được xem như là cha tinh thần của Dòng Cát Minh.

 

  1. Đức Trinh Nữ tinh tuyền là Mẹ, và là vẻ đẹp của Dòng Cát Minh

Khi đến gần Đức Mẹ, chúng ta đi vào nơi sâu thẳm nhất của mầu nhiệm Dòng Cát Minh. “Dòng Cát Minh hoàn toàn mang tính Thánh Mẫu”, châm ngôn này, được hình thành vào thời Trung Cổ thích ứng với sự thật lắm, về mặt lịch sử cũng như tinh thần.

Dấu vết đầu tiên về lòng sùng kính của các ẩn sĩ Núi Cát Minh đối với Đức Mẹ hầu như trùng hợp với việc họ đi vào lịch sử. Họ đã dâng hiến cho Đức Mẹ nhà thờ đầu tiên của họ, theo chứng từ của một khách hành hương Thánh Địa vào giữa thế kỷ XIII: “Trên sườn núi này (Cát Minh), có những ẩn sĩ Latinh ở, mà người ta gọi là tu sĩ Dòng Cát Minh; họ đã xây tại đó một nhà thờ rất đẹp dâng kính Đức Mẹ” (PVT 67) . Bởi hành động này, các tu sĩ Cát Minh tiên khởi đã dâng mình phục vụ Đức Mẹ và đã đặt tu hội của họ dưới sự bảo hộ và che chở của Người. Sự bảo trợ này đã được các văn kiện Tòa Thánh xác nhận vào giữa thế kỷ XIII và các văn bản của tổng tu nghị Montpellier (1287) trong đó nói rằng Dòng được thành lập để phục vụ và tôn vinh Đức Maria diễm phúc Thân Mẫu Chúa Giêsu”.

Về sau, những truyền thuyết về biểu tượng đã bắt đầu xuất hiện dưới ngọn bút của những tác giả Dòng Cát Minh. Như vậy đám mây nhỏ chuyển mưa đang được mong mỏi biết bao mà ngôn sứ Elia đã nhìn thấy bay lên từ phía biển, được xem như một hình bóng Đức Mẹ Đồng Trinh. Những tường thuật thời Trung Cổ kể lại rằng việc Đức Giáo hoàng Honorius III đã xác nhận Dòng Cát Minh sau công đồng Latran IV là do một sự can thiệp của Mẹ Thiên Chúa. Nguồn gốc của việc tôn kính Áo Đức Mẹ Núi Cát minh, rất phổ biến trong nhiều thế kỷ và còn sống động đến hôm nay, cũng do Đức Mẹ hiện ra ban thưởng cho thánh Simon Stock. Nếu khoa phê bình lịch sử hiện đại nghiêm nhặt đã do dự để chấp nhận tính xác thực của những sự kiện huyền diệu này, mà cơ sở có thể kiểm chứng được lại vô cùng mỏng manh, tuy nhiên ta phải chấp nhận rằng Dòng Cát Minh luôn luôn tỏ ra thận trọng trong lãnh vực này và các hiện tượng loại này rất thông thường vào thời Trung Cổ. Đàng khác, việc tôn kính Áo Đức Mẹ đã góp phần nuôi dưỡng lòng kính mến Đức Mẹ của nhiều thế hệ tín hữu.

Vào thế kỷ XIV và XV, những tu sĩ Cát Minh thông thái đã khởi thảo cả một nền thần học Thánh Mẫu, thiết lập, đặc biệt trên cơ sở những bản văn Cựu Ước, một tương quan thần bí giữa Đức Trinh Nữ Maria và Núi Cát Minh. “Vẻ đẹp của Núi Cát Minh” (Is. 35,2) là danh xưng phổ quát nhất của Người trong Dòng này. Cha Jean de Cheminot nhấn mạnh hơn nữa vai trò từ mẫu của Đức Maria: “Thưa anh em,… anh em được mang tước hiệu Đức Nữ Trinh Maria, là Nguồn Mạch thương xót và là Mẹ chúng ta”. Đối với cha Arnold Bostius, Đức Maria là Chị, là Mẹ và là Quan thầy của các tu sĩ Cát Minh. Họ xem người như chị của họ vì đời họ sống “trong đức khiết tịnh giống như đời sống của Người. Đức Maria, chị của các tu sĩ Cát Minh, là Nữ Trinh rất tinh tuyền”. Danh hiệu này đặc biệt thân thương đối với Dòng Cát Minh.

*   *   *

Đời sống kết hợp với Đức Mẹ của các vị cải tổ vĩ đại  Dòng Cát Minh thật sâu sắc. Khi mồ côi mẹ, trẻ Têrêsa de Ahumada đã chọn Đức Maria làm Mẹ. Sau này, người gọi các đan viện của người là “Chuồng bồ câu của Đức Trinh Nữ” và khuyên các nữ đan sĩ Cát Minh của người trở nên “con cái thực sự của Đức Mẹ”. Còn đối với thánh Gioan Thánh Giá, Đức Mẹ đã nhiều lần can thiệp vào cuộc đời của người và người nói cách rất trìu mến về Đức Mẹ với anh em người. Cha Titus Brandsma thậm chí còn gọi người là một “nhà thần nhiệm Thánh Mẫu”. Mặc dù người chỉ nói có bảy lần về Đức Mẹ trong các tác phẩm của người, nhưng một cách mặc nhiên, sự nghiệp văn chương của người hoàn toàn mang tính cách “Thánh Mẫu”, vì Đức Mẹ thể hiện tột mức gương mặt Hiền Thê mà người đã phác họa.

Nền thần bí Thánh Mẫu của Dòng Cát Minh đạt đến tuyệt đỉnh của nó vào thế kỷ XVII trong cuộc cải cách Touraine. Sách Le Directoire des novices (Hướng dẫn tập sinh) nhấn mạnh rất nhiều về nền thần bí này: “Các tu sĩ phải luôn luôn có Mẹ mình trong tâm trí, trong tim bằng một lòng kính mến thường xuyên.” Nhưng chính Marie de Sainte Thérèse (Petyl), tu kín, người Bỉ, Dòng Ba Cát Minh, được ban cho kinh nghiệm cao nhất về Đức Mẹ; một sự kết hợp thần bí tuyệt vời với Đức Mẹ “nên một trong Thiên Chúa và kết hợp với Thiên Chúa”. Và vị đại chiêm niệm thêm: “Thưởng thức Thiên Chúa, tôi cũng thưởng thức Đức Mẹ như thể Mẹ nên một với Thiên Chúa và không phân biệt với Ngài”. Cha Michel de Saint – Augustin, linh huớng các chị đã xuất bản các tác phẩm của bà.

Cuộc đời thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu thấm nhuần sự hiện diện của Đức Mẹ đã rạng rỡ mỉm cười với người lúc người còn bé và đã cho người lành bệnh, thánh Têrêsa luôn luôn cầu xin Mẹ của Người hằng giúp đỡ người và “không bao giờ người ẩn mặt với người” (DE 72). Nữ tu Élisabeth Chúa Ba Ngôi nhìn thấy nơi Đức Maria, trước hết là Trinh Nữ của thinh lặng, “nơi người mọi sự đều diễn ra trong lòng” và lời cầu nguyện của người luôn luôn là: “Này con đây…” Đức Maria là Đấng luôn luôn “xin vâng” như Con của Mẹ vậy (2Cr 1,19), bởi vì người rất khiêm nhường, “luôn luôn quên mình, không biết đến bản thân và thoát khỏi chính mình.” (ET la III, 40). Theo cha Titus Brandsma, “mục đích  đời sống kết hợp với Đức Mẹ của chúng ta phải có phần nào trở nên một người Mẹ Thiên Chúa nữa, sao cho Thiên Chúa được thụ thai và sinh ra nơi chúng ta”. Như thế, người đã gặp gỡ học thuyết các Giáo Phụ.

Nếu Chúa Thánh Thần là hiện thân sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì Đức Mẹ là sự hiện thân sự thánh thiện của con người. Vì Đức Mẹ trinh khiết vô cùng, là Mẹ và Hiền thê của Đức Kitô, tâm hồn Cát Minh chỉ đạt được mục đích tinh tuyền kết hợp với Đức Kitô và phong nhiêu thiêng liêng nhờ ngày càng giống Thân mẫu Đức Giêsu cách sâu xa hơn, như chúng ta đã thấy, mục đích chính yếu mà các thành viên của Dòng này phải đạt đến là đời sống thần nhiệm (PVT 20) tức là một cuộc sống được Chúa Thánh Thần điều khiển. Thế mà, Maxime le Confesseur định nghĩa “kẻ thần bí” như là kẻ, nơi họ “việc Chúa sinh ra” được tỏ hiện rõ ràng nhất; người nói “chiêm niệm làm cho linh hồn nên phong nhiêu, vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ”. Và thánh Ambroise lại nói rõ hơn: “Mỗi linh hồn tin tưởng, đều thụ thai và sinh ra Ngôi Lời của Thiên Chúa cả; theo đức tin, Đức Kitô là hoa quả của hết thảy chúng ta, chúng ta là mẹ của Đức Kitô”. Cách biện minh sâu xa cho những bản văn này ở trong lời sau đây của Chúa Giêsu, trong đó Ngài diễn tả sự cao cả của Mẹ Ngài bằng cách có thể nói được cho tất cả mọi tín hữu tham gia vào đó: “Ai thực hành thánh ý Thiên Chúa, đó là anh, chị em, là mẹ tôi” (Mc 3,35). Như vậy, Dòng Cát Minh nhận ra mình cách sâu xa trong mầu nhiệm  Đức Maria.

Mẹ Thiên Chúa, như Tin Mừng cho ta thấy, vạch con đường cho chúng ta. Đức Maria là tâm hồn rất thinh lặng vậy, là con người cầu nguyện thâm sâu “hằng giữ mọi biến cố ấy mà suy đi gẫm lại trong lòng” (Lc 2,19). Việc cầu nguyện của người đã không làm cho người dửng dưng, nhưng lại cởi mở đối với tha nhân: người vội vã đến giúp đỡ bà chị họ Isave cao niên, và sự chuyển cầu kín đáo nhưng mạnh thế bao trùm mọi nỗi khốn khổ của con người. Nghèo khó thiêng liêng thực sự, Đức Mẹ ở trong số những “tâm hồn trống vắng và cô tịch,” mà theo thánh Gioan Thánh Giá là duy nhất “có thể đón nhận những kho tàng thiêng liêng của Thiên Chúa” (thư ngày 8.7.1589), Mẹ Maria tự do đối với thọ tạo và “không bao giờ bị các thọ tạo điều khiển: nhưng Chúa Thánh Thần luôn luôn hướng dẫn người” (MC III, 2). Lắng nghe tự đáy lòng, người có thể tự do đáp lời Thiên Sứ: “Xin thể hiện cho tôi theo lời người” (Lc 1,38 ) .Và nhờ lời “xin vâng” này, Chúa Thánh Thần ngự đến, rợp bóng trên người, Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể trong lòng người, đưa nguời vào vực thẳm của Ba Ngôi Thiên Chúa. Và sự chấp thuận này kéo dài đến thập giá, nơi mà Đức Mẹ bởi lòng thương xót của Người, được tham gia vào việc Cứu Độ thế giới và trở nên Mẹ của hết thảy mọi người (Ga 19, 26-27). Đức Mẹ còn có mặt tại phòng Tiệc Ly với các Tông đồ, cùng với các ngài và thiết tha hơn các ngài, cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống, hoàn tất việc thiết lập Giáo Hội vào lễ Ngũ Tuần. Rồi Đức Maria ẩn mình: các sách Thánh không nói đến người nữa. Nhưng trong bóng tối và thinh lặng, bởi sự hiện diện và lời cầu nguyện của người, người đóng một vai trò chủ yếu trong Giáo Hội non trẻ: người là con tim sống động của Giáo Hội. Đời sống kết hợp với Đức Mẹ trong Dòng Cát Minh thật đơn giản và chân thành. Vấn đề không phải là “những việc đạo đức” nhưng là sống nơi Đức Maria. Tu sĩ nam nữ Dòng Cát Minh mặc Áo Đức Mẹ (LF Lời tựa)  như  “mặc lấy” sự hiện diện của người. Mẹ là người đầu tiên, tiến bước trên con đường hiểm trở của việc tìm kiếm Thiên Chúa, Mẹ là dấu hiệu cậy trông cho họ, ngay cả trong đêm tối mịt mù. Không bao giờ Đức Mẹ cản trở giữa Thiên Chúa và con người. Mẹ “trong suốt”, tràn ngập ánh sáng duy nhất của Chúa, và như vậy, Mẹ giúp linh hồn “dễ dàng đến với Thiên Chúa hơn, và ở trong Ngài cách hoàn hảo hơn.” (Marie de Sainte Thérèse).

Cách kín đáo, âm thầm, Mẹ Maria chạm đến nơi sâu thẳm nhất của những kẻ biết lắng nghe, để cho họ thông phần vào mầu nhiệm của người. Các tu sĩ nam nữ Cát Minh         đã suy niệm đặc biệt (biến cố Truyền Tin trong Tin Mừng), lời xin vâng hoàn toàn với Thiên Chúa, lời thưa vâng của trí khôn và con tim, được diễn tả trong cuộc sống cụ thể làm cho, trong thời gian và không gian, Đức Kitô luôn luôn được sinh ra một lần nữa.

. III .Các bậc thầy vĩ đại về đời sống thiêng liêng

Dòng Cát Minh có sứ mạng chính yếu trong Giáo Hội là sống Tin Mừng trong một hướng nội tâm và truyền đạt chút gì của kinh nghiệm chiêm niệm này, liên lỉ nhắc nhở cho một thế giới bị một thứ duy hoạt động chủ nghĩa khích động cằn cỗi xâm chiếm, những giá trị cơ bản của tương quan cá nhân với Thiên Chúa mà mọi người đều được mời gọi thể hiện. Dĩ nhiên, Dòng Cát Minh không có tham vọng giữ độc quyền chiêm niệm…

Tuy nhiên, Dòng vẫn cung cấp cho Giáo Hội hai tiến sĩ thần nhiệm vĩ đại: thánh Têrêxa và thánh Gioan Thánh Giá. Gần chúng ta hơn về thời gian, thánh Têrêxa Lisieux “tiến sĩ về con đường thơ ấu” đã làm cho mọi người biết rõ, trong tính đơn sơ Tin Mừng của nó, học thuyết thiêng liêng của Dòng Cát Minh. Chân dung tóm lược của ba vị thánh lớn chỉ muốn là một con đường bé nhỏ mời gọi độc giả đến gần nguồn mạch trường sinh của văn phẩm các nhà thần bí thôi.

1.Thánh Têrêxa Avila

Têrêsa de Ahumada y Cepeda sinh ngày 28.3.1515 tại Avila, một thành phố thô tháp với những tường lũy xuất hiện từ một phong cảnh trơ trụi và lởm chởm đá. Đối với thân phụ người, Don Alonso Sanchez de Cepeda, con người khắc khổ và ngay thẳng, gốc Do Thái, và thân mẫu người, Dona Beatrix de Ahumada, dịu dàng và hơi lãng mạn, đức tin là điều chính yếu. Rất sớm, Thiên Chúa thu hút Têrêsa, con người bé nhỏ này, táo bạo, tràn đầy sức sống và trí thông minh, biết yêu thương say đắm. Lên bảy, người muốn “xem thấy Thiên Chúa” và rủ anh đi tìm tử đạo tại xứ người Hồi Giáo.

Sáu năm sau, một nỗi đau buồn to tát đánh động Têrêsa : cái chết của mẹ người. Lúc đó người quay về Đức Mẹ, nài van người thay thế mẹ mình. Lo lắng về những thành công trong xã hội thượng lưu của đứa con gái xinh đẹp và thông minh, thân phụ gởi người cho các nữ tu Dòng Augustinô Notre Dame de Grâce. “Ước muốn những thiện hảo vĩnh cửu” (VL III) của người bừng lên, đời tu đối với người là cách rỗi linh hồn chắc chắn nhất. Bất chấp những ghê sợ của người và sự phản đối của thân phụ, tiểu thư Têrêsa vào Dòng Cát Minh Nhập Thể tại Avila năm 1535, ít lâu sau khi tuyên khấn, người ngã bệnh và một lối điều trị khủng khiếp người chịu tại Becedas làm cho người kiệt quệ. Thánh Giuse cho người được khỏi bệnh – người phổ biến quanh mình lòng tôn sùng thánh Giuse, sau này đã gây ảnh hưởng trong Giáo Hội do những tác phẩm của người –  người nữ tu trẻ tuổi về lại tu viện của mình nơi đây và suốt mười tám năm, người chống cự với Chúa. Lòng nhiệt thành và bác ái của người không thể chối cãi được, nhưng người không chịu từ bỏ những cuộc chuyện vãn xuất sắc ở nhà khách. Tuy nhiên Thiên Chúa đòi hỏi phải hiến dâng trọn vẹn. Têrêsa đã 39 tuổi. Một hôm bất chợt người nhìn thấy gương mặt đau thương của Chúa Kitô chịu nạn, đánh động người tận tâm can, và người “xin vâng” vô điều kiện: Thiên Chúa đáp trả lòng quảng đại của người bằng những ơn thần nhiệm gây kinh hãi cho các cha giải tội.

Lúc đó Têrêsa cảm thấy được Chúa thúc đẩy dấn thân hơn nữa. Cách giữ luật lỏng lẻo trong tu viện không đủ cho người nữa. Người khát khao thinh lặng, cô tịch, khắc khổ, bầu khí cần thiết cho một đời sống chiêm niệm. Để đáp lại những đòi hỏi của Chúa và giúp ích cho Giáo Hội bị cuộc cải cách Tin Lành làm cho tan nát, người quyết định lập một đan viện, trong đó luật Dòng Cát Minh sẽ lại được tuân giữ “trọn vẹn không giảm chế, đúng như Luật Dòng đã được Đức Giáo Hoàng Innocent IV ban năm 1247” (VE XXXVI ).

Sau những nỗi khó khăn khôn kể xiết, Đan Viện Thánh Giuse bé nhỏ đã được khánh thành ngày 24.8.1562. Một khi giông tố dấy lên chống lại Têrêsa trong tu viện gốc của người và trong thành phố đã lắng dịu, cuộc sống đan tu đặt trọng tâm vào tâm nguyện từ từ được tổ chức. Vị sáng lập Dòng viết tiểu sử của mình, sách Đường Hoàn Thiện và Hiến Pháp. Đối với người, “thật phấn khởi khi được sống giữa con cái mình trong nghèo khó tĩnh lặng” (VE XXXVI ).

Nhưng vào năm 1567, cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Cát Minh đến Avila và ra lệnh cho Mẹ Thánh sáng lập những Đan Viện Cát Minh khác nữa “bằng số tóc trên đầu người”. Và này đây con người ưa thích thinh lặng và cô đơn này, lại lao mình trên những con đường gồ ghề, lầy lội xứ Tây Ban Nha cho đến cuối đời. Trong lúc lập Dòng tại Medina del Campo, người gặp được cột trụ thứ hai trong cuộc cải tổ của người: Jean de Saint Mathias, Gioan Thánh Giá tương lai.

Thánh Têrêsa theo đuổi việc chinh phục xứ Castille. Trong vòng bốn năm, sáu đan viện Cát Minh khác và tu viện đầu tiên các cha Dòng Cát Minh được thành lập. Rồi năm 1572, oái oăm thay, người bị đưa về tu viện Nhập Thể tại Avila, với tư cách Bề Trên. Người ta nghe thấu tận tường thành những tiếng la hét của những nữ đan sĩ ấy điên tiết không cho người vào nhà. Nhưng cách khôn khéo và bác ái, Mẹ Thánh đưa tu viện trở lại tình trạng sốt sắng với sự trợ giúp của thánh Gioan Thánh Giá mà Mẹ đã cắt đặt là cha giải tội và tuyên úy. Chính nơi đó, ngày 10.10 cùng năm ấy, thánh nữ nhận được ơn hôn phối thiêng liêng: ơn “hiện diện” không hình hài và hình ảnh của Ba Ngôi diễm phúc trong tâm hồn.

Năm 1574, Mẹ Têrêsa tiếp tục lập Dòng. Tại Beas, lần đầu tiên người gặp cha Jérôme Gratien; mặc dù có vụng về, người cũng đã góp phần đáng kể trong việc ổn định việc cải tổ non trẻ. Khi cuộc cải cách này suýt chìm trong cơn bão táp, cha Bề Trên Tổng Quyền của Dòng ra lệnh cho Mẹ Thánh giam mình vĩnh viễn vào một trong những nhà người đã lập. Người chọn đan viện ở Tolède, nơi người sáng tác một phần cuốn sách: “Những cuộc Lập Dòng” và bắt đầu kiệt tác của người “Lâu đài nội tâm”.

Sau khi thiết lập Cát Minh cải tổ thành Tỉnh Dòng riêng biệt (1580), Mẹ sáng lập lại lên đường. Chính tại Burgos mà người khó nhọc xây dựng đan viện cuối cùng của người, nơi đây người hoàn tất sách “Những cuộc lập Dòng”. Sức lực thể xác ngày càng yếu dần. Ở tuổi sáu mươi bảy, người biết cái chết đã gần kề. Vào những ngày cuối tháng bảy, Mẹ Thánh rời Burgos với người cháu Têrêsita, và chị trợ sĩ trung thành Anne de Saint Barthélemy. Sau một tháng lưu lại Palencia, đoàn khách du hành của chúng ta lại leo lên những chiếc xe chở hàng tồi tệ. Theo lời Anne de Saint Barthélemy: “Thiên Chúa đã muốn cho tất cả cuộc hành trình chỉ là một chuỗi toàn là đau khổ”. Tại Valladolid, bà Bề Trên, Marie Baptiste, cháu của Mẹ dồn dập trên Mẹ Lập Dòng những lời trách móc về chuyện chia gia tài. Tại Medina, Mẹ Alberte hiểu sai một lời nhận xét của Mẹ Têrêsa và mất lòng bỏ đi. Bệnh đã nặng lắm rồi, Mẹ Têrêsa nhận được lệnh đến Albe trước khi trở về Avila. Mẹ đến đó, kiệt sức. Khi vài ngày sau, người ta đem Mình Thánh Chúa  đến cho Mẹ làm của ăn đàng, Mẹ thốt lên: “Ôi lạy Chúa của con và Hôn Phu yêu dấu của con, đã đến lúc hai ta gặp nhau!” Rồi người nhắc lại nguồn gốc và ý nghĩa sâu xa sứ mạng của người bởi lời này được lập lại nhiều lần: “Cuối cùng, tôi là con Giáo Hội!” Chìm sâu trong nhiệt tâm chiêm niệm, Mẹ Têrêsa Chúa Giêsu phó linh hồn cho Thiên Chúa ngày 4.10.1582. Nhiệm vụ của người đã hoàn thành và đã thực hiện ý định của Chúa. Trên thân cây cổ thụ Dòng Cát Minh, vị cải tổ đã ghép một nhánh mới đầy sức sống. Hôm nay, nửa sự nghiệp của “Mẹ những người thiêng liêng” vẫn còn rất sống động.

*   *   *

Thánh Têrêsa Avila không phải một văn sĩ như các văn sĩ khác. Mẹ chỉ cầm bút vì vâng lời thôi. Lời văn của Mẹ sống động và cá nhân giống như một dòng thác chảy xiết cuốn đi những tảng đá và sạn sỏi, văn phẩm của người tuôn như suối, người không có thì giờ để đọc lại. Thánh nữ mô tả cách tinh tế thiêng liêng và tâm lý, nhất là kinh nghiệm bản thân, do đó mà trở thành một kẻ hướng dẫn vững vàng cho ai tìm kiếm Thiên Chúa trên con đường tương tự.

Năm 1562, Thánh Têrêsa viết sách Tự Thuật, người sẽ bổ túc bằng lịch sử lập Đan Viện Thánh Giuse. Trong tường thuật này, những tư tưởng sáng chói về cầu nguyện lẫn lộn với những biến cố bên trong và bên ngoài cuộc sống của người. Như vậy, người kể lại cuộc khám phá cơ bản của đời người, khám phá cầu nguyện nội tâm, vốn là một tình bạn thân thiết, một cuộc đàm đạo thường xuyên với Đấng chúng ta biết mình được yêu” (VE VIII).

Thánh nữ so sánh các bậc cầu nguyện với những cách tưới một mảnh vườn. Trước hết, người làm vườn khó nhọc lấy nước từ giếng lên: linh hồn một người hoạt động, vất vả tìm cách hồi tâm (cầu nguyện tĩnh lặng). Nhờ một bánh xe và những chiếc gầu, công việc dễ dàng hơn: Thiên Chúa đã can thiệp bằng cách trói buộc ý chí tức là con tim (cầu nguyện an tĩnh). Đến bậc thứ ba, người làm vườn sử dụng nước máy lấy từ con sông: Thiên Chúa hành động nhiều hơn nữa bằng cách xâm chiếm tất cả các quan năng của linh hồn (cầu nguyện hiệp nhất), và cuối cùng, mưa tưới cho mảnh vườn: Thiên Chúa làm tất cả công việc và linh hồn “chỉ hưởng thụ mà không biết mình hưởng gì” (VE XVIII) (Cầu nguyện thiên phú).

Cũng năm đó, chiều theo ước muốn của con cái người, “đã quấy rầy người biết bao”, Mẹ Thánh bắt đầu “viết điều gì đó về nguyện ngắm” (CP lời tựa). Nhưng trước hết, người nói nhiều về ơn gọi Dòng Cát Minh, về nhân đức và nhất là những nhân đức “cần thiết cho những ai bước đi trên con đường tâm nguyện” (CP IV): tình huynh đệ, lòng siêu thoát các thọ tạo và siêu thoát bản thân, đức khiêm nhượng. Người kết thúc quyển sách của người bằng một chú giải kinh Lạy Cha trong đó người nói về các hình thức cầu nguyện, Thánh Thể và các ước muốn lớn lao.

“Lâu đài nội tâm” viết năm 1577, trong thời kỳ trưởng thành thiêng liêng, hiển nhiên đó là kiệt tác của thánh Têrêsa. Người xem linh hồn như lâu đài, toàn một khối kim cương hoặc phalê hoàn toàn trong suốt, bên trong có nhiều chỗ ở” (LD 1,1) mà chính ở trung tâm có Thiên Chúa ngự. Qua vô số chỗ ở đó, thánh nữ giản lược lại thành bảy chỗ ở, người muốn nói lên, trước hết, những hình thức cầu nguyện, những nhân đức, những đau khổ, những công việc, những ước muốn lớn lao, tóm lại những gì liên quan đến đời sống thiêng liêng. Thánh Têrêsa mô tả hành trình nội tâm từ cửa lâu đài là cầu nguyện nội tâm (LD I ,1) ngang qua nền tảng của nó là khiêm nhường, “tức là bước đi trong sự thật” (LD VI ,10) cho đến trung tâm hoặc là nơi Ba Ngôi Thiên Chúa ngự. Nhưng trong thực tế của cuộc sống, việc đi qua “đương nhiên” và tuần tự các chỗ ở thường bị sự tự do cao cả của Thiên Chúa phá vỡ, vì Ngài không quan tâm đến trước, sau, vì con đường của mỗi người thật độc đáo. Và Thiên Chúa vô cùng tôn trọng tính tự lập của con người ý thức về nỗi cơ cực của mình, liên lỉ cố gắng phó mình cho Thần Khí.

  1. Thánh Gioan Thánh Giá

Jean de Yepes sinh năm 1542, tại Fontiveros, thành phố nhỏ của xứ Castille cổ xưa, là con thứ ba của ông Gonzalo de Yepes, quê ở Tolède, gốc Do Thái, vì yêu bà Catalina Alvazez kiều diễm và nhân đức nên đã phải sống nghèo. Sau khi người cha mất sớm, bà Catalina và con cả, Francisco kiếm sống cho gia đình bằng nghề kéo sợi len và tơ. Sau này ở Medina, Jean, đã rất cởi mở đối với những gì liên quan đến Thiên Chúa, bắt đầu đi học, tập thử nghề. Cuối cùng, được một chỗ làm trong bệnh viện, người chăm sóc bệnh nhân cách rất bác ái. Chẳng bao lâu, người ta cho phép người theo học trường các cha Dòng Tên, ở đó người được đào tạo chu đáo về văn chương.

Nhưng Thiên Chúa gọi Jean rất kín đáo, cậu thanh niên đến gõ cửa Dòng Cát Minh. Tại đây vào năm 1563, người mặc Áo Dòng với tên Jean de Saint Mathias. Sau khi tuyên khấn, người được phép giữ luật cách nhiệm nhặt hơn. Học xong triết học tại Salamanque, người chịu chức linh mục năm 1567 và dâng lễ mở tay ở Medina.

Tại đó, người gặp Mẹ Têrêsa Chúa Giêsu vừa lập đan viện thứ hai của người trong thành phố này. Tu sĩ Cát Minh trẻ tuổi này tỏ bày cho Mẹ ước muốn sống hoàn hảo và cô tịch tại Đan viện Sáctrơ ở Paular. Khi ấy Mẹ thánh nói với người về cuộc cải tổ của mình và người đã thuận theo với điều kiện “là không phải chờ đợi lâu” (LF III ). Sau một năm học Thần học ở Salamanque, người được Mẹ Têrêsa đưa đến Valladolid để chính Mẹ huấn luyện người tu sĩ Cát Minh này, dáng vóc nhỏ bé, nhưng “vĩ đại dưới mắt Thiên Chúa” (Thư cuối tháng chín 1568). Rồi cha Gioan, từ nay mang tên Gioan Thánh Giá, đến Duruelo và cùng với hai tu sĩ khác, người sáng lập tu viện đầu tiên Dòng Cát Minh cải tổ và hứa “sống theo luật Dòng ban sơ của thánh Alberto được Đức Giáo Hoàng Innocent IV tu chỉnh, không giảm chế”. Trong nhiều năm, người lo huấn luyện các tu sĩ trẻ Cát Minh cải tổ. Năm 1572, người được lệnh về Avila theo Mẹ Têrêsa Chúa Giêsu với tư cách linh mục giải tội cho các nữ tu Đan Viện Nhập Thể. Việc linh huớng của người, liên kết những phân biệt  thần khí và kinh nghiệm thiêng liêng của người bổ túc và kiện toàn sự nghiệp của Mẹ thánh.

Sau khi Mẹ sáng lập Dòng qua đời, cha Gioan và bạn đồng hành với người ở lại Avila. Nhưng từ Tổng Tu Nghị Plaisance, cơn giông tố gầm thét chống lại cuộc cải tổ non trẻ. Ban đêm, một nhóm tu sĩ Cát Minh luật cũ phá tung cửa ngôi nhà bé nhỏ của các tu sĩ Cát Minh cải tổ, dẫn họ đi như những tên tội phạm. Cha Gioan đã mặc họ muốn làm gì thì làm, sung sướng được đau khổ vì Đức Kitô. Thật bí mật, họ dẫn người đến tu viện ở Tolède trên mỏm đá nhìn xuống sông Tage. Tất cả những hình phạt đã định trước cho những kẻ không chịu khuất phục đều được áp dụng cho người để buộc người chối bỏ cuộc cải tổ. Nhưng không gì làm cho đan sĩ bé nhỏ này nao núng được. Lúc bấy giờ, họ nhốt người vào một loại tủ lớn nằm trong tường nơi mà chỉ có một tia ánh sáng nhỏ xuyên qua thôi. Người ở trong đó chín tháng.

Vì đã được thanh luyện lâu năm, thánh Gioan Thánh Giá cảm thấy bừng cháy nơi mình ước muốn khắc khoải chiếm hữu Chúa Giêsu. Nhưng người còn phải trải qua “đêm tối khủng khiếp của chiêm niệm mà Thiên Chúa muốn đặt linh hồn vào đó để nâng lên bậc kết hợp với Chúa” (N.O.II, 2). Trong ngục tối, chính Chúa dường như bỏ rơi người. Nhưng trong những đau khổ người chấp nhận với tiếng xin vâng trọn vẹn, thánh Gioan Thánh Giá đi vào cách bí nhiệm trong “khu vườn quyến rũ” (PJ II,18), nơi cuộc hôn phối với Đức Kitô – Phu Quân được ký kết. Những áng thơ vô song tuyệt mỹ tuôn tràn kinh nghiệm này:

Ôi đêm tối, đã hướng dẫn tôi,

Ôi đêm tối đáng yêu hơn bình minh,

Ôi đêm tối đã kết hợp

Tân lang với tân nương,

Tân nuơng được biến đổi nơi tân lang của mình (PJ I )

Sự nghiệp vì đó, Thiên Chúa đã cho phép bao đau đớn đã hoàn thành. Được những thôi thúc nội tâm mạnh mẽ kích thích, cha Gioan quyết định trốn đi. Vài ngày sau lễ Đức Mẹ Mông Triệu, sáng sớm, người thoát khỏi ngục tù. Liều tan xương trên những mỏm đá Tage, người trèo xuống từ một cửa sổ nhờ níu vào một sợi giây thừng mỏng mảnh. Thánh nhân đến đan viện các nữ đan sĩ Cát Minh cải tổ và tâm sự với các chị rằng không bao giờ người cảm thấy những niềm vui sâu xa hơn là trong ngục thất.

Lên đường về ẩn viện Calvario ở Andalousie – nơi người đã vẽ đỉnh núi trọn lành – cha Gioan Thánh Giá dừng lại tại đan viện các nữ đan sĩ Cát Minh ở Beas, trong số các nữ tu này, người gặp chị Anne de Jésus, về sau rất tâm đắc với người. Vào thời kỳ này, thánh nhân bắt đầu viết “Lên núi Cát Minh”. Năm 1579, người thành lập đại học Baeza.

Tại Tổng Tu Nghị đầu tiên các tu sĩ Cát Minh cải tổ tại Alcalà (1581), cha Gioan được bổ nhiệm làm Bề Trên tu viện Grenade, tại đó người hoàn thành quyển “Lên  núi Cát Minh” và “Đêm Tối”. Người viết bản bình luận Ca Thiêng cho chị Anne de Jésus và bản bình luận về Lửa Thiêng cho con thiêng liêng của người: Ana de Penalosa, một quả phụ ở Ségovie.

Trong tổng tu nghị Lisbonne, cha Nicolas Doria được bổ nhiệm làm giám tỉnh,  cha Gioan Thánh Giá trở thành cố vấn và sau này làm Đại diện tỉnh Dòng Andalousie. Tiếp theo là thời gian hoạt động mãnh liệt: thành lập các tu viện ở Cordoue, La Manchuela,, Caravaca, Séville. Được tái cử Bề Trên tu viện Grenade, người lập Dòng tại Bujalance năm 1587. Ở tổng tu nghị Madrid, năm kế đó, cha Gioan được bổ nghiệm là cố vấn và Bề Trên ở Segovie, nơi đó người xây một tu viện mới, khi cha Doria đi vắng, người lo tất cả các công việc của Tỉnh Dòng.

Cha Gioan ngày càng “kính mến Ba Ngôi Thiên Chúa”. Một hôm, cầu nguyện trước ảnh Chúa chịu đóng đinh, Chúa hỏi cha muốn gì: thánh nhân trả lời: “được đau khổ vì Chúa và được khinh bỉ và coi không ra gì”. Người sẽ được toại nguyện.

Vào tháng 6.1591, một tổng tu nghị bị xáo động diễn ra tại Madrid. Cha Doria muốn bỏ việc cai quản các nữ đan sĩ  được xét là quá ít tuân phục, và đuổi cha Gratien ra khỏi Dòng. Cha Gioan Thánh Giá phản đối việc này. Sau tổng tu nghị, cha không còn chức vụ gì nữa và đến La Penuela, rất thanh thản. Một trong những anh em của người, Diego Evangéliste, báo cáo một cách bỉ ổi chống lại người để người ta lột áo Dòng của người. Thánh Gioan vẫn bình an: “Thập giá khô khan là điều ngọt ngào”.

Vào tháng chín, thánh nhân ngã bệnh và xin được chăm sóc tại Ubeda. Cha Bề Trên, nuôi một mối căm thù lâu năm, đón tiếp người rất tồi tệ và đổ trên người bao nhiêu lời trách móc. Cha Gioan “hao mòn vì đau đớn” nhưng vẫn vui tươi. Chiều ngày 13.12.1591, người nói: “Vinh danh Thiên Chúa! Tôi phải hát kinh Sách trên thiên đàng”. Người yêu cầu người ta cho người nghe vài đoạn sách Diễm Ca. Đến nửa đêm, một cách nhẹ nhàng, cha Gioan Thánh Giá phó linh hồn cho Thiên Chúa.

*   *   *

Là văn sĩ, thánh Gioan Thánh Giá trước tiên là thi sĩ. Người hát lên kinh nghiệm thiêng liêng của người, diễn tả bằng hình ảnh và biểu tượng, những gì, trong thinh lặng của tình yêu, đã tuôn trào từ “trung tâm ẩn kín nhất” của người (thơ VF). Âm nhạc đầy màu sắc phong phú biết diễn tả tất cả tâm tình của trái tim con người mang thương tích của tình yêu – từ nỗi khắc khoải hổn hển đến bình an vô biên khi sở hữu được Người yêu.

Theo yêu cầu của con cái thiêng liêng, cha Gioan đã bắt đầu chú giải bài thơ. Người không ngỏ lời với tất cả các Kitô hữu, nhưng chỉ với các tu sĩ và nữ đan sĩ Dòng Cát Minh thôi và “tất cả những người khác kiếm tìm Đức Lang Quân” (VF III), muốn đi đến sự “trơ trụi của tâm trí” (MC Lời tựa) nơi đó Thiên Chúa tự mặc khải. Quyển “Lên núi Cát Minh” và “Đêm tối” giống như hai phần của cùng một tác phẩm, bàn về hai khía cạnh – chủ động và thụ động – của cùng một đêm tối duy nhất. Đây là cuộc thử thách sẽ tạo nên nơi chúng ta một hữu thể mới. Thiên Chúa thanh tẩy trước hết cảm tính, rồi làm cho các quan năng của tâm hồn hòa hợp với Ngài nhờ các nhân đức đối thần và những đau khổ khủng khiếp, bên trong và bên ngoài, cho đến khi “mảnh da cũ bị lột xơ xác” (No II ,13), linh hồn được Đức Kitô cho mặc lấy chính Ngài (Ep 2 ,15).

Phần đầu bài Ca Thiêng bao gồm các giai đoạn cuối cùng của đêm tối, chờ mong khắc khoải được kết hợp hoàn toàn:

Bạn hỡi! Bạn ẩn nấp nơi đâu ?

Bạn để tôi quằn quại rên xiết ? (PJ II,1)

Để tìm thấy Ngài, linh hồn sẽ cùng Ngài ẩn nấp, cho tất cả chỉ vì tình yêu. “Bởi vì linh hồn muốn xa cách mọi thọ tạo vì Tân Lang, say mê linh hồn do bởi nỗi cô tịch của nàng, đã săn sóc nàng, đón nàng trong vòng tay của Người”(CS  B 35).

Quyển Lửa Thiêng, kiệt tác của thánh tiến sĩ, mô tả trạng thái biến đổi:

Ôi Lửa Thiêng tình yêu!

Âu yếm gây ngao ngán,

Trung tâm sâu thẳm nhất của hồn tôi! (PJ III,1).

Ngọn lửa, Chúa Thánh Thần, đã thanh tẩy tâm hồn trong đau đớn, giờ đây mang lại cho nó những niềm vui khôn tả. Hiền thê trở nên như vầng thái dương có thể “rực rỡ trước mặt Tân Lang”(VF III).

Vô số châm ngôn của thánh nhân lập lại với những lời mới mẻ học thuyết bất di bất dịch và khó nghèo thiêng liêng, hư vô dẫn đến Tất Cả, trong tin, cậy, mến.

  1. Thánh Têrêxa Lisieux

Marie FranVoise – Thérèse Martin sinh ngày 2 tháng Giêng 1873 tại AlenVon trong một môi trường trưởng giả. Thân phụ người, ông Louis Martin, nhân từ chính trực, hơi lãng mạn và thân mẫu người, bà Zélie Guérin, rất hoạt động và lo lắng vật chất cho năm cô con gái còn sống, song thân người đều là những Kitô hữu xác tín, cả hai đều đã nghĩ đến đời tu trì. Têrêxa, con út, cởi mở đối với Thiên Chúa ngay từ lúc có trí khôn. Những năm đầu tiên của cô bé thông minh, nhanh nhẹn, nhạy cảm, bướng bỉnh này không có vấn đề.

Khi Têrêxa lên 4, đau khổ đột ngột ập đến trong đời cô. Bà Guérin, bị ung thư, đã về với Chúa. Sau đám tang, Têrêxa đã chọn chị Pauline làm “Mẹ”. Nhưng tâm tư cô bé bị tổn thương sâu xa. Cô bé tinh nghịch trở nên tư lự, nghiêm trang, rất nhạy cảm. Vào cuối năm ấy, gia đình dọn đến Lisieux, trong ngôi biệt thự nhỏ Buissonnets. Lên 8, Têrêxa vào bán trú tại Đan Viện Biển Đức trong thành phố, nơi em không bao giờ thích nghi được.

Ngày 2.10.1882, Pauline, người mẹ thứ hai của Têrêxa vào Dòng Cát Minh. Sự phân cách này làm cho cô bé không còn sức chịu đựng về tinh thần nữa và cứ đau đầu liên lỷ. Năm sau, vào lễ Phục Sinh, một căn bệnh tâm lý dữ dội lộ ra sau hai lần bị tước đoạt tình mẫu tử. Têrêxa chứng kiến, hoàn toàn sáng suốt, những cơn vật vã, la, khóc và lối ứng xử lỳ lạ của mình. Cơn bệnh này cũng có thể ở trên bình diện những “đêm tối” thanh luyện mà, để chỉnh đốn tậm tâm linh các thánh của Ngài, Thiên Chúa cho họ trải qua những chấn động thần kinh sâu xa. Nếu được đảm nhận trong đức tin và lời “xin vâng”, những thử thách ấy trở nên con đường hướng về ánh sáng. Đối với Têrêxa, một ánh sáng lóe lên ngày lễ Hiện Xuống. Quay về phía Đức Mẹ, cô bé van nài Mẹ thương xót mình. Câu đáp trả là “Đức Mẹ mỉm cười với Têrêxa” (MA 30), giải thoát Têrêxa khỏi chứng loạn thần kinh: từ nay, bé biết mình được Mẹ trên trời yêu thương.

Lên 11 tuổi, Têrêxa rước lễ lần đầu: “Chúa Giêsu và bé Têrêxa không còn là hai nữa, Têrêxa đã biến mất như một giọt nước trong biển cả” (MA 83). Ngày 14.6 bí tích Thêm Sức mang lại cho cô bé “sức mạnh để chịu đau khổ” (MA 83).

Tuy nhiên, Têrêxa vẫn kiệt sức. Vì những chuyện không đáng kể, nước mắt Têrêxa vẫn ràn rụa. Nhưng suốt đêm Giáng Sinh, Thiên Chúa thể hiện nơi Têrêxa một cuộc hoán cải sâu xa. Cô viết: “Trong đêm nay, khi Giêsu trở nên yếu ớt dường ấy và đau khổ vì yêu tôi, Người làm cho tôi nên mạnh mẽ và can đảm” (MA 107). Thắng được tính ấu trĩ, Têrêxa trưởng thành. Một chúa nhật nọ, khi nhìn tượng ảnh Chúa Kitô chịu đóng đinh, bỗng chốc, Têrêxa cảm thấy bị dày vò bởi nỗi “khát khao các linh hồn” (MA 109), và ngọn lửa tông đồ này trong người không bao giờ tắt.

Ngày 19.5.1887, chúa nhật Hiện Xuống, Têrêxa thưa với thân phụ ước muốn vào Dòng Cát Minh của mình. rất xúc động, “đức vua yêu dấu” của người ưng thuận trong một hành động đức tin. Nhưng cha Bề Trên Đan Viện phản đối việc vào Dòng quá sớm này. Têrêxa không chịu thua: người đến biện hộ công việc của mình trước mặt Đức Giám Mục Bayeux, rồi can đảm trình bày với Đức Giáo Hoàng Léon XIII nhân một buổi triều yết công khai tại Vatican. Thiên Chúa không để người phải thất vọng: ngày 28.12, Têrêxa nhận được giấy phép của Đức Giám Mục và ngày 9.4 năm sau, ông Martin dẫn “nữ hoàng bé nhỏ” của ông vào Dòng Cát Minh.

Ngày 20.1.1889, chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu lãnh tu phục Dòng Cát Minh. Ít lâu sau, thân phụ chị bị giữ lại trong viện tâm thần Bon Sauveur ở Caen: đối với chị, đây là thử thách não lòng nhất đời chị. Đàng khác, đời sống thiêng liêng của chị tập sinh lại khô khan. Dịp tĩnh tâm khấn dòng, chị viết: “Giêsu đã dẫn tôi vào một đường hầm, không nóng không lạnh, chẳng có mặt trời, mưa gió gì cả… tôi chỉ nhìn thấy ở đó một ánh sáng che lấp một nửa”, ánh sáng “đôi mắt  tàn tạ của vị Hôn Phu tôi” (LT 110). Ngày 8.9.1890, chị Têrêxa H.Đ.G tuyên khấn trong an bình. Chúa Giêsu “vị linh hướng” của chị thu hút chị trên đường khó nghèo và yêu mến. Một cha giảng phòng củng cố chị trong ơn gọi cá nhân này và “đẩy” chị tiến xa trên đường tin tưởng và yêu mến. (MA 201).

Khi làm Bề Trên, Mẹ Agnès de Jésus (Pauline) cho chị Têrêxa giúp Mẹ giáo tập Marie de Gonzague. Mẹ Bề Trên trẻ yêu cầu em mình viết lại những kỷ niệm thời thơ ấu. Vào lễ Chúa Ba Ngôi, năm 1895, chị Têrêxa dâng mình làm “của lễ toàn thiêu cho tình yêu lân tuất” của Chúa, để “sống trong một tác động yêu mến trọn hảo” (MA 320). Trong đêm thứ Năm đến sáng thứ Sáu Tuần Thánh năm sau, nữ đan sĩ trẻ tuổi này, đón nhận cơn thổ huyết đầu tiên như một điềm báo “Tân Lang sắp đến” (MA 249). Niềm vui của chị thật lớn lao. Nhưng ít ngày sau, cơn cám dỗ dữ dội chống lại đức tin và đức cậy tấn công chị và không rời khỏi chị cho đến giờ chết, ngoại trừ vài tia ánh sáng chói chang. Chẳng hạn, vào tháng 9, trong lúc chị suy gẫm thư I gởi giáo đoàn Corintho (12,31; 13), chị nhận được những ơn soi sáng cao siêu về ơn gọi cá nhân chị, cô đọng trong tiếng kêu: “Ơn gọi của tôi là yêu mến! Trong lòng Giáo Hội, Mẹ tôi, tôi sẽ là tình yêu” (MA 229).

Bất chấp bệnh lao phổi làm chị hao mòn, chị Têrêxa vẫn tiếp tục giữ luật nghiêm nhặt của Dòng Cát Minh. Trong mệt nhọc và đau đớn thể xác, tinh thần, chị vẫn giữ được sự tư chủ, bình an kín múc trong việc quên mình và bác ái huynh đệ. Tính kiên nhẫn của chị thật đáng phục, nhưng chị bảo: “Không phải sự kiên nhẫn của tôi đâu, người ta nhầm rồi” (DE 8,8).

Suốt mùa hè 1887, tình trạng của Têrêxa ngày càng trầm trọng. Theo lệnh của Mẹ Bề Trên Marie de Gonzague, chị bắt đầu viết tập thủ bản thứ ba. Ngày 11.7, cây bút chì rời khỏi tay chị. Những chữ cuối cùng chị viết như tóm tắt cuộc đời chị: “Tôi vươn lên đến Ngài bằng tin tưởng và mến yêu” (MA 313). Ngày 30.9, buổi chiều, cơn hấp hối kinh khủng bắt đầu. Sau 19 giờ một chút, hổn hển thở, chị nhìn Thánh Giá Chúa Chịu Nạn của chị và nói: “Ôi! Lạy Chúa, con yêu mến Chúa!” (DE 1, 384). Rồi chị nhẹ nhàng nghiêng đầu về phía sau. Nhưng, bất thình lình, chị vùng dậy, đôi mắt hướng về trời, rực sáng bình an và niềm vui, thời gian bằng một kinh Tin Kính. Rồi chị thở nhẹ hơi cuối cùng, giữ lại trong cái chết nụ cười khôn tả của chị: “Tôi cảm thấy sứ vụ của tôi sắp bắt đầu: sứ mạng của tôi là làm cho người ta yêu mến Thiên Chúa như tôi yêu mến Ngài, cho các linh hồn con đường bé nhỏ của tôi … Tôi muốn sống Thiên Đàng của tôi bằng cách giúp ích cho trần thế” (DE 17,7). Chị thánh Têrêxa đã giữ lời hứa.

*   *   *

“Nên bé nhỏ tức là nhìn nhận hư vô của mình, chờ đợi tất cả nơi Thiên Chúa, như một đứa bé chờ đợi tất cả nơi cha nó: tức là không lo lắng gì cả, không làm giàu … Nên bé nhỏ là không gán cho mình những nhân đức mình thực hành … không nản lòng vì lầm lỗi của mình …” (DE 6.8). Những lời này thốt ra vài tuần trước ngày nay chị qua đời, có thể nói được là tóm lược giáo huấn thiêng liêng của chị Têrêxa, cố ý tránh xa ảo tưởng của “thuyết tĩnh tịch”, quá được đề cao vào thế kỷ XIX, chị thánh đã tìm được con đường chân lý: hướng về Đức Kitô mà chạy (Ph 3,12-14). Trong sự tự do của tình yêu, hướng mắt lên Ngài chứ không phải trên bản thân. Một lần nữa, Têrêxa lại mặc khải cho thời đại chúng ta Tin Mừng tinh tuyền được tóm tắt trong lòng mến và những điều nghịch lý của Bát Phúc. Vô số người đã theo con đường thơ ấu, khó nghèo thiêng liêng, tin tưởng vô giới hạn và phó thác cho tình yêu lân tuất của Thiên Chúa.

Thánh Têrêxa đã để lại cho chúng ta ba Thủ Bản Tự Thuật. Quyển I, được soạn theo yêu cầu của Mẹ Agnès de Jésus giữa tháng 1.1895 – 1.1896, kể lại cuộc đời của chị, từ lúc có trí khôn cho đến khi dâng mình cho Tình Yêu lân tuất Chúa. Quyển II gồm một lá thư cho chị Marie du Sacré-Coeur, viết từ 13 đến 16.9.1896. Sau khi trao kinh nghiệm thiêng liêng cho người chị ruột, chị Têrêxa nói với Chúa Giêsu về ơn gọi tình yêu của chị với một giọng trữ tình chân chính, gây xúc động mạnh. Quyển III, soạn giữa ngày 3.6 và 11.7.1897, ngỏ lời với Mẹ Marie de Gonzague. Trong phần đầu, chị tiếp tục kể cuộc đời của mình, phần hai lại hoàn toàn là một bài ca ngợi tình huynh đệ.

226 bức thư của chị bổ túc cho bản Tự Thuật của chị, luôn luôn trong cùng đường hướng tu đức ấy: “… điều đẹp lòng Thiên Chúa là nhìn thấy tôi yêu sự bé nhỏ nghèo hèn của tôi, là tôi mù quáng cậy trông vào lòng thương xót của Ngài … Ta còn yếu kém, không có ước muốn và nhân đức, ta lại càng thích hợp cho tác động của Tình Yêu thiêu hủy và biến đổi này” (LT 17.9.1896). Hình thức các Bài Thơ của Têrêxa thường theo quy ước, nhưng nội dung thiêng liêng, vượt quá lớp vỏ ấy, lại phong phú. Những Lời Cuối Cùng của chị thánh được các chị ruột của chị ghi lại nằm trong thời gian từ 16.4.1987 đến khi chị Têrêxa qua đời. Do những văn phẩm của chị, đã được phổ biến cách lạ lùng, chị tiếp tục việc tông đồ của chị trên thế giới, nhất là nhắc lại sự thật cơ bản này: “Chỉ tình yêu mới đáng kể thôi!” (DE 29,9)

 

. IV.Các chứng nhân hôm qua và hôm nay

Ở thế kỷ chúng ta, khát khao chứng tá trung thực và chống lại lý thuyết tốt đẹp mà không được diễn tả trong đời sống, chúng tôi nghĩ nên giới thiệu, sau các bậc thầy vĩ đại về đời sống thiêng liêng, có vài gương mặt nổi bật của Dòng Cát Minh. Qua các hiện thân rất đa dạng này của linh đạo Dòng Cát Minh. Chúng tôi muốn cố gắng đi sâu hơn nữa vào mầu nhiệm của Dòng.

  1. Thánh Alberto, Thượng Phụ Giáo Hội Giêrusalem
    và là Đấng lập Luật Dòng Cát Minh

Thánh Alberto, có lẽ xuất thân từ các công hầu Sabbioneta, đã chào đời ở miền Bắc nước Ý khoảng giữa thế kỷ XII. Được bầu làm Bề Trên các Kinh Sĩ Thánh Giá ở Mortara (Pavie) năm 1180, người được bổ nhiệm Giám Mục Bobbio (1184), rồi chuyển đến giáo phận Verceil mà người cai quản hơn 20 năm. Trong thời gian này, người hoàn thành nhiều sứ mạng quan trọng, trong đó có việc làm trung gian giữa Đức Giáo Hoàng Clement II và vua Fédéric Barbe – rousse, và đã tham gia soạn thảo luật dòng cho nhiều tu hội.

Đầu thế kỷ XIII, Alberto được bầu làm Thượng Phụ Giáo Hội Giêrusalem, Đức Giáo Hoàng Innocent III xác nhận chức vụ này cho người ngày 17.2.1205, và ngày 5.6, bổ nhiệm con người “giàu kinh nghiệm, khôn ngoan và tài năng” này (SC 157) làm Khâm Sai Tòa Thánh tại Thánh Địa. Đầu năm sau, người dời đến Saint- Jean d’Acre, vì Giêrusalem đã rơi vào tay người Hồi Giáo. Tòa Thánh vẫn tiếp tục tỏ lòng tín nhiệm người và giao cho nhiều sứ vụ khó khăn trong toàn vùng Trung Đông.

Tuy không thuộc Dòng Cát Minh, nhưng thánh Alberto đã đóng một vai trò chủ yếu trong Dòng, vai trò lập pháp. Chính người, theo lời yêu cầu của các ẩn sĩ Latinh ở trên Núi Cát Minh gần suối Elia, nơi ngày nay mang tên Wadi ‘ain es – Siah, đã soạn thảo giữa những năm 1206 và 1214 luật ban sơ Dòng Cát Minh. Chắc chắn thánh Alberto đã hệ thống hóa truyền thống đan tu khởi xưa của các ẩn sĩ Núi Cát Minh, vì cơ cấu sống được mô tả trong Luật Dòng này gần cơ cấu của “laure” byzantine – điều này không ngăn cản Thượng Phụ in dấu ấn cá tính của mình vào đó. Mang nhiều tính cách Thánh Kinh và ngắn gọn, bản văn này ít nhấn mạnh trên bộ máy kỷ luật, thu gọn đến mức tuyệt đối cần thiết, cho bằng trên tinh thần của thể chế mới, hướng về cầu nguyện liên lỷ, suy gẫm Lời Chúa, thinh lặng, cô tịch và khó nghèo. Thánh Alberto qua đời tại Saint- Jean d’Acre ngày 14.9.1214. Người bị viên quản lý bệnh viện sát hại bằng dao, người mà thánh nhân đã truất phế và khiển trách công khai.

  1. Thánh Simon Stock

Lịch sử cổ xưa nhất của Dòng Cát Minh thường nhắc đến thánh Simon Stock. Lịch sử này đã gán cho người một vai trò cao cả, chẳng hạn, chính người được Đức Maria hiện ra, là căn nguyên việc tôn kính Áo Đức Mẹ Núi Cát Minh. Ngành phê bình sử học hiện đại đã phản ứng đến độ phải đặt lại vấn đề về sự hiện hữu của thánh nhân. Tuy nhiên, phán đoán này hơi thái quá. Những sự kiện sau đây có thể được xem như lịch sử: thánh Simon Stock, người Anh, là một trong những Bề Trên Tổng Quyền đầu tiên của Dòng và qua đời ngày 16.5.1265 tại Borbeaux, và được an táng nơi đây. Người có tiếng là “thánh thiện”, hay làm phép lạ. Còn việc Đức  Mẹ hiện ra, thì những hiện tượng như thế thường có vào thời Trung Cổ. Dòng Cát Minh chỉ ghi lại năm hiện tượng cho thời đại này. Một sự dè dặt như thế khiến ta có thể tin rằng thánh Simon đã được Đức Maria hiện ra.

  1. Thánh Phêrô Tôma

Phêrô Tôma sinh tại Périgord khoảng 1305. Người khấn dòng tại tu viện Cát Minh ở Bergerac, sau khi hấp thụ một nền học vấn vững chắc, đã đậu tiến sĩ thần học tại đại học Paris. Từ năm 1353, Tòa Thánh giao cho người những sứ vụ quan trọng tại Châu Âu và Trung Đông. Được thụ phong Giám Mục tại Patti và Lipari, rồi chuyển về Corone ở Péloponnèse, người được bổ nhiệm làm Khâm Sứ Tòa Thánh ở Đông Phương. Cùng với Philippe de Mézières và Pierre I xứ Lusignan, vua đảo Chypre, người dự tính một cuộc thập tự chinh mới, mà Đức Giáo Hoàng Urbain V tuyên bố ngày 11.4.1363, sau khi cho Đức Cha Phêrô Tôma thăng chức Tổng Giám Mục đảo Crète. Các tàu chiến của thập tự quân rời thành phố Venise ngày 27.6.1635. Nhờ những lời khích lệ của người, Đức Tổng Giám Mục đã góp phần vào việc chiếm thành Alexandrie. Nhưng đạo binh Latinh chán nản, đã bỏ thành phố ấy trở về đảo Chypre. Tại Famagouste, dịp lễ Giáng Sinh, Đức Tổng Giám Mục Phêrô Tôma bị cảm lạnh. Bệnh tình của người ngày càng trầm trọng, và người đã về với Chúa tại tu viện của thành phố, ngày 6.1.1366, sau khi phân phát cho người nghèo mọi sở hữu của mình.

  1. Thánh André Corsini

Sinh vào đầu thế kỷ XIV tại Florence, André Corsini được nhắc đến lần đầu tiên trong một tài liệu ngày 3.8.1338 trong số các tu sĩ Dòng Cát Minh của thành phố ấy, người được bổ nhiệm làm giám tỉnh Toscane tại Tổng Tu Nghị ở Metz năm 1348, hai năm sau, được Đức Giáo Hoàng Clement VI bổ nhiệm làm Giám Mục Fiesole. Người vẫn tiếp tục sống khó nghèo và đơn sơ như một tu sĩ. Người ưu tư nâng trình độ của hàng giáo sĩ và đời sống thiếu mẫu mực của họ, người đã lập nên Hiệp Hội các linh mục để đào tạo về thần học và luân lý cho các ứng sinh vào chức linh mục: một đại chủng viện, hai năm trước Công đồng Trente! Rất gần gũi dân chúng, Đức Giám Mục, tự xưng là “cha và quản lý của người nghèo” (SC 165) lo lắng cho những kẻ túng thiếu đã thành đông đảo do bởi một cơn bệnh dịch hạch gây nên năm 1348 –1349. Vào thời loạn lạc này, Giám Mục André Corsini vẫn là người hiền hòa bình tĩnh, các giáo sĩ và những nhà buôn giàu có ở Florence và Fiesole, những người quyền thế ở Prato, Pistoia và các thành phố khác, chạy đến cầu cứu người như một vị thần nhân công bình và thanh liêm. Vị Giám Mục thánh thiện này qua đời ngày 6.1.1374.

  1. Thánh Jean Soreth

Sinh tại vùng lân cận thành phố Caen năm 1394, Jean Soreth vào Dòng Cát Minh thành phố này vào năm 1438, đạt  được bậc Cao Học về thần học tại đại học Paris. Hai năm sau, người được bổ nhiệm làm Giám Tỉnh Dòng ở Pháp.

Ngay từ Tổng Tu Nghị 1457, khi người được bầu làm Bề Trên Tổng Quyền toàn dòng, cha Jean Soreth đã bắt đầu công cuộc cải cách của người. Bản lãnh phong phú và quân bình, người đã biết dung hòa tính nội tâm và tính hữu hiệu. Không biết mệt mỏi, cha đi kinh lý tất cả các Tỉnh Dòng, các tu viện của Dòng, để đưa anh em về với nếp sống tu trì xứng với lý tưởng dòng và khơi lên nhiệt tình thuở ban đầu. Để đạt mục đích này, người viết một bản bình luận Luật Dòng, phản ảnh kinh nghiệm tu trì và thiêng liêng của người. Đối với người, “cùng đích của mọi tu sĩ và sự trọn hảo của lòng họ, là hướng đến cầu nguyện liên lỷ, không gián đoạn, kiên trì, theo mức có thể được đối với con người yếu đuối. Đó là cố gắng tiến tới tình trạng an bình vững vàng và sự thanh khiết vĩnh viễn của tâm hồn”.

Cha Bề Trên Tổng Quyền vĩ đại này, quy tụ trong những tu viện cải tổ, tất cả các anh em quyết tâm sống một cuộc sống nhiệm nhặt hơn. Đối với những phần tử còn lại, cha cấp cho họ một Hiến Pháp mới, trong đó người nhấn mạnh trên đức khó nghèo, thinh lặng, cô tịch, học hành và lao động. Ta cũng đã có dịp nhắc đến công việc chính yếu của cha Jean Soreth là thiết lập Dòng Nữ Cát Minh và Dòng Ba.

Sau khi đạt đến đỉnh cao của sự thánh thiện cá nhân, qua những đấu tranh và lao nhọc khôn kể – không bao giờ làm cho người quên đi điều chính yếu là: kết hợp với Chúa bằng tâm nguyện – cha Jean Soreth đã phó linh hồn cho Chúa năm 1471, tại Angers.

  1. Chân phước FranVoise d’Ambroise

Có lẽ người sinh tại Thouars, ngày 28.9.1427, ái nữ của lãnh chúa de Thuoars và bà Marie de Rieux. Chưa được 4 tuổi, được đã phải hứa hôn với Pierre, thứ nam của quận công xứ Bretagne. Người sống tại triều đình quận công. Sau khi thân phụ và anh cả qua đời, Pierre lên ngôi và cùng với FranVoise được phong vương tại Vương Cung Thánh Đường ở Rennes. Góa phụ ở tuổi 30, nữ quân công chống lại tất cả áp lực thân phụ và của vua nước Pháp ép buộc người tái giá. Cuộc gặp gỡ chân phúc Jean Soreth, Bề Trên Tổng Quyền Dòng Cát Minh khiến người quyết định lập một nữ Đan Viện Cát Minh tại Vannes. Ngày 2.11.1463, chín nữ đan sĩ từ Liège đến, dưới sự hướng dẫn của cha Bề Trên Tổng Quyền và ba tháng sau, các chị sở hữu Đan Viện Trois-Maries ở Bondon. Cuối cùng, được tự do, FranVoise lãnh tu phục từ tay cha Jean Soreth, ngày 28.3.1468. vị nữ quân công từ nay trở thành “nữ tu FranVoise, nữ tỳ Đức Giêsu – Kitô” (SC 211). Làm Bề Trên, hai năm sau khi tuyên khấn, người sáng lập tại Nantes Đan Viện “Notre Dame de Couets”. Nơi người, đức khiêm nhượng và hiền lành liên kết với nhau, tính cương quyết và lương tri vững vàng, như các lời khuyến dụ của người chứng tỏ: con đường thẳng để lên Thiên Đàng, là Thập Giá: đó là cánh cửa thứ nhất. Phải tự khiêm tự hạ, muốn được khinh khi… Tôi van nài chị em giúp nhau giữ linh hồn mình, để chị em có thể phục vụ Thiên Chúa tốt hơn …”

Năm 1479, nữ tu FranVoise xin Đức Giáo Hoàng Sixte IV ban phép duyệt lại Hiến Pháp, trong đó người giữ vai trò chủ yếu. “Ai không giữ ý riêng, không thể nào hư mất được; ai khó nghèo thì được bảo đảm và ai trong sạch và khiết tịnh thì tiêu diệt được kẻ thù… Kẻ an bình và con cái Thiên Chúa sẽ không bị Chúa Cha bỏ rơi… (nữ tu) phải đơn sơ khiêm tốn, không tự phụ về hành vi của mình… và luôn luôn được biến đổi trong tình yêu của Thiên Chúa”.

Ngày 28.10.1485, Mẹ FranVoise cảm thấy đau đớn dữ dội và ngày 3.11, người lãnh bí tích Xức Dầu. Hôm sau, thứ sáu, lúc 15 giờ, cộng đoàn được triệu tập đến bệnh xá. Gương mặt người  hấp hối bừng sáng lên và, êm ái nhẹ nhàng, người phó linh hồn cho Thiên Chúa.

  1. Thánh Marie Madeleine de Pazzi

Catherine de Pazzi chào đời tại Florence ngày 2.4.1566. được Rước lễ lần đầu ngày 25.3.1576, không đầy một tháng sau, người hứa với Chúa giữ khiết trinh trọn đời. Thiên Chúa đã thu hút người mãnh liệt ngay từ thuở còn thơ.

Ngày 1.12.1582, Catherine vào Dòng Cát Minh Sainte -Marie-des-Anges trong thành phố của người và trở thành nữ tu Maria Madalena. Một năm sau khi lãnh tu phục, người bệnh nặng, chẳng bao lâu người kiệt sức và sắp chết, đến nỗi các Bề Trên quyết định chấp thuận cho người tuyên khấn ngày 27.5.1584, lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ ngày đó, Chúa ban cho người đầy dẫy ơn thần nhiệm. Có khi những cuộc xuất thần của người kéo dài nhiều ngày. Khi người ở dưới sự thúc đẩy của Thiên Chúa như vậy, đôi khi người bất động, nhưng bình thường người vẫn tiếp tục công việc của mình. Vài trường hợp, người ta trông thấy người thêu may, vẽ và làm mọi việc khác cách rất hoàn hảo và tỏ ra mạnh mẽ lạ lùng trong những công việc nặng nhọc. Họa hiếm lắm người mới nhận được ơn có những hình ảnh nội tâm, nhưng ơn Chúa luôn luôn được biểu lộ bằng một “sự hiện diện vô ảnh, vô hình”.

Từ ngày tuyên khấn, Mẹ Bề Trên ra lệnh cho chị đọc cho chị em ghi chép những gì Thiên Chúa cho chị nghe thấy. Các chị được giao nhiệm vụ ghi chép này đã viết lại tất cả ngay cả khi chị xuất thần và những điều ghi chép này được biên soạn thành một quyển sách.

Nhưng cuộc đời của chị Maria Madalena không chỉ là ánh sáng đâu. Từ ngày 8.6, áp lễ Hiện Xuống, chị đón nhận Chúa Thánh Thần trong nhiều ngày dưới nhiều hình thức. Rồi bắt đầu một thử thách lớn đè nặng trên chị kéo dài suốt 5 năm: đau đớn cả nội tâm lẫn thể lý, chỉ gián đoạn bằng những cơn xuất thần đau đớn, khi đó Thiên Chúa mặc khải cho chị rằng Giáo Hội và nhất là các dòng tu cần phải cải cách lại. Say mê sự đổi mới này và ơn cứu rỗi các linh hồn, thánh nữ muốn lúc nào cũng “chịu tử đạo và chịu muôn ngàn đau khổ để các linh hồn được ơn đón nhận Bửu Huyết Chúa Giêsu” (SC 282)

Từ ngày 1.5.1595, thánh nữ xin Chúa Giêsu “ơn đau khổ trần trụi” (SC 279), nhưng ước muốn của người về sau mới được nhận lời. Trong năm đó, chị được bầu làm giám đốc học viện và ba năm sau làm giáo tập. Năm 1604, ít lâu sau khi được bổ nhiệm làm phó Bề Trên, chị Maria Madalena ngã bệnh; giờ “đau đớn trần trụi” đã điểm và kéo dài cho đến khi chị qua đời. Ngày 25.3.1607, trong lúc chị em đọc kinh Tin Kính của thánh Athanasie, chị đã đi vào niềm hoan lạc thiên thu.

Sự cao cả của vị thánh này hoàn toàn nội tâm. Nhờ hoàn toàn đón nhận ý Chúa trong ánh sáng cũng như trong tối tăm, người đã đạt đến đỉnh cao đời sống thần nhiệm. Như những người chiêm niệm chân chính, nhờ dán mắt vào Thiên Chúa, người không hề quên các thực tại trần thế. Những lời người khuyên nhủ các tập sinh là một bằng chứng tốt đẹp về lương tri và quân bình nhân bản và thiêng liêng. Những tác phẩm khác của người, không truyền đạt một giáo huấn thiêng liêng có hệ thống như của thánh Têrêsa Avila, tuy nhiên, vẫn là một bằng chứng quý báu về hành trình của một tâm hồn thánh thiện hướng về Đấng Lang Quân, trong ý hướng đơn sơ, ngay lành, khiêm nhượng, khó nghèo, tình yêu: “Tôi có thể nói rằng những linh hồn không yêu thương đồng loại thì chẳng hiểu biết gì về Thiên Chúa cả… Chị em hãy làm mọi hành động với một tâm tình khiêm nhượng, hãy nghĩ rằng đôi mắt Thiên Chúa trong suốt dường ấy rất gần trái tim chị em; Thiên Chúa yêu đức khó nghèo đến nỗi không thể làm khác hơn là tự hiến và ban nước Ngài cho những ai thực hành nhân đức ấy”.

  1. Chân phước Marie de l’Incarnation (Mme Acarie)

Một cô bé hiền lành, rất xinh đẹp, hay mủi lòng, Barbe Avrillot phải rời tu viện Longchamp nơi cô muốn ở mãi trong đó. Nhưng thân sinh cô, ông Champlâtreux không chịu như thế, theo ý kiến của ông, một thiếu nữ sinh ra không phải để đi tu. Ở tuổi 17, Barbe bằng lòng làm vợ Pierre Acarie, lãnh chúa Villemor. Hoàn toàn vâng lời cha mẹ ư ? Không: có tình yêu trong đó nữa. duyên dáng và vui vẻ, bà “Acarie diễm lệ” chìu theo các đòi hỏi của đời sống xã hội thượng lưu: làm mẹ và nội tướng hoàn hảo, bà biết khôn khéo hướng dẫn con cái và đám tôi nam tớ nữ.

Một hôm, bất chợt bà gặp được lời của thánh Augustin thấu tâm hồn bà: “Quá keo kiệt thay, kẻ không lấy Thiên Chúa làm đủ cho mình”. Người dường như có một quả tim khác, một tâm hồn khác, và trước nỗi kinh ngạc của chồng, Chúa bắt đầu xâm chiếm bà cách mãnh liệt.

Khi Pierre Acarie thất sủng, nghèo khổ, khinh dể, tan gia bại sản ập đến. Nhưng Barbe lại hân hoan: “Một linh hồn nhận tất cả từ bàn tay Thiên Chúa, luôn luôn hài lòng”. Và nhà thần bí này trở nên tàn tật, can đảm gánh lấy công việc của gia đình cách hữu hiệu. Dần dần nhà bà trở thành một trung tâm nơi các bậc tu đức của thời ấy gặp gỡ nhau, nơi mà người giàu, kẻ nghèo tìm an ủi tuôn đến. Bà nói: “Khi người ta cho Thiên Chúa thời giờ của mình, người ta tìm ra thời giờ cho mọi việc khác”. Tuy nhiên, bà cảm thấy dường như Thiên Chúa từ bỏ bà.

Năm 1601, bà yêu cầu người ta đọc cho nghe các tác phẩm của Thánh Têrêsa Avila, nhưng bà không mấy phấn khởi. Và rồi, hai lần liên tiếp, thánh nữ hiện ra và ra lệnh cho bà phải đưa con cái người vào đất Pháp. Ngay năm sau, khi Barbe thắng được sự dè dặt của những vị giáo sĩ cố vấn của bà, mọi sự đều rõ ràng cho công cuộc này mà bà là linh hồn. Theo ý kiến của bà, một chuyến đi sang Tây Ban Nha được tổ chức để mời những con cái đích thực của Thánh Têrêsa. Cha Brétigny – mà người ta gọi là “người đầu tiên cổ động công việc này” – phải nhờ đến tài ngoại giao của Hồng Y de Bérulle để đạt mục đích. Trong lúc đó, Đan Viện được xây cất tại ngoại ô Saint-Jacques. Ngày 15.10, bà Acarie, “Mẹ và đấng sáng lập thực sự Dòng Cát Minh tại Pháp”, đón tiếp tại Paris 6 nữ đan sĩ Cát Minh Tây Ban Nha, trong số đó có Anne de Jésus, và Anne de Saint Barthélemy.

Bà Acarie cũng cộng tác vào việc thành lập các Dòng Cát Minh ở Pontoise, Dijon, Amiens, mặc dù vẫn trung thành với bổn phận làm vợ và làm mẹ. Bà cưới vợ cho con trai cả, còn con trai thứ ba chuẩn bị làm linh mục và ba cô gái của bà đều vào Dòng Cát Minh. Tháng 10.1613, Pierre ngã bệnh, và vợ ông “chăm sóc ông cách tuyệt vời”, cho đến khi ông qua đời.

Thu xếp việc nhà xong, cuối cùng, bà quả phụ có thể từ bỏ thế gian, nơi bà “không chút bận tâm”. Bà xin như một hồng ân là được nhận với tư cách trợ sĩ tại Đan Viện Amiens. Trở thành nữ tu Marie l’ Incarnation, bà “hoàn toàn vâng phục và mềm dẻo tất bật ở nhà bếp, và thường bỏ những việc đạo đức riêng để phục vụ chị em”. Được giao nhiệm vụ hướng dẫn tập sinh, người dạy các chị ấy nhất là đức vâng lời và khiêm nhượng. Khi phạm một lỗi ư ? “Đó là một sự thức tỉnh đối với linh hồn… các lỗi lầm của chúng ta phải được chúng ta sử dụng làm phân bón nuôi dưỡng đất của linh hồn chúng ta và làm cho nó sinh hoa kết trái… ,lo lắng khi chúng ta sa ngã là kiêu ngạo nhiều …”

Kỳ bầu cử năm 1616, mọi lá phiếu đều qui về chị trợ sĩ khiêm tốn này. Chị từ chối: “Sẽ là một Bề Trên kỳ lạ!”. Vậy người ta chọn một nữ tu thuộc một Đan Viện khác. Người này hạ nhục và quấy nhiễu người đủ mọi cách, nhưng như vậy mới thỏa mãn ước nguyện của người là “bước đi trên con đường chịu khinh dể của Con Một Thiên Chúa”. Được chuyển về Pontoise năm sau đó, nữ tu Marie de l’Incarnation ngã bệnh nặng vào tháng 2.1618. Ngày lễ Phục Sinh 15.4, người thốt lên: “Lạy Chúa, con chịu hết nổi rồi, xin Chúa chịu giùm con, lạy Chúa!”. Ngày 16, người bất tỉnh và trong lúc lãnh bí tích Xức Dầu, người nhẹ nhàng thở một hơi dài và “thấy mình ở Thiên Đàng mà không hay…”.

  1. Chân phước Anne de Saint Barthélemy

Anne Garcia sinh ngày 10.10.1549 tại Almendral trong một gia đình nông dân. Từ niên thiếu, làm việc đồng áng, chị đã được những ơn thần nhiệm rất cao. Hai mươi mốt tuổi, chị vào Dòng Cát Minh cải tổ Thánh Giuse ở Avila, nơi chị là người trợ sĩ đầu tiên của cuộc cải cách. Với tên Anne de Saint Barthélemy. Vị sáng lập Dòng rất quý mến tâm hồn này. Khi Mẹ Thánh bệnh hoạn đau yếu, người đã chọn chị làm trợ tá và bạn đồng hành, và Mẹ đã qua đời trong tay chị tại Đan Viện Albe de Tormès. Năm 1604, chị cùng với chị Anne de Jésus và các nữ đan sĩ Cát Minh Tây Ban Nha khác được cử sang lập Dòng Cát Minh Têrêxa đầu tiên ở Pháp. Ít lâu sau khi đến Paris, vì vâng lời, chị chấp nhận lúp đen của các nữ đan sĩ ca triều. Làm Bề Trên ở Pontoise rồi ở Tours, Mẹ Anne trở về Paris năm 1611. Không bao giờ cảm thấy thoải mái trong các Đan Viện Cát Minh ở Pháp do Hồng Y de Bérulle điều khiển, chị xin được chuyển sang Bỉ để đặt mình lại dưới sự linh hướng của các cha Dòng Cát Minh cải tổ. Sau một năm ở tại Mons, người đi lập một Đan Viện tại Anvers, nơi người lưu lại cho đến khi qua đời. Đời sống thiêng liêng của Mẹ Anne hoàn toàn đặt trọng tâm nơi việc chu toàn thánh ý Chúa. Thông phần vào các mầu nhiệm Vui và Thương của Đức Kitô, người đạt đến sự kết hợp cao nhất đối với Thiên Chúa. Chính năm 1626, nhân ngày lễ Thiên Chúa Ba Ngôi mà người đi về Nhà Cha. Người đã viết: “Tình yêu Thiên Chúa bắt đầu thật êm dịu, với một ngọn lửa nhỏ, như khi ta nhóm lửa với vài cọng rơm, nhưng khi ta thêm củi vào đó, nó trở thành một lò lửa rất lớn đến nỗi ta không chịu đựng được nữa”.

  1. Thầy Jean de Saint Samson

Jean du Moulin sinh tại Sens vào cuối tháng 12.1571, cha mẹ khá giả và đạo đức. Lên ba, người bị mù mắt. Phải chăng Chúa để cho người cảm nhận mãnh liệt hơn nữa ánh sáng của Thiên Chúa ? Bảy năm sau, sau thời thơ ấu hạnh phúc, cha mẹ người mất. Chú của người nuôi người ăn học. Người ta phát hiện được tài âm nhạc xuất sắc của người, nhanh chóng, người trở thành một đại nhạc sĩ phong cầm.

Jean cảm thấy ngày càng được Thiên Chúa thu hút. Lời của thánh Phaolô sau đây: “Tôi chịu đóng đinh Thập Giá cùng với Đức Kitô” (Gl 2,19), một hôm đã nên như lưỡi kiếm sắc bén gây thương tích khôn nguôi cho người. Không bỏ nghề nhạc sĩ phong cầm, chàng thanh niên từ nay dành cuộc sống khó nghèo và đơn độc của mình cho việc cầu nguyện và hãm mình. Định cư tại Paris, Jean dành phần lớn thời giờ của mình để cầu nguyện tại nhà thờ các cha Dòng Cát Minh ở quảng trường Maubert. Lâm cảnh khốn cùng, Jean được các cha đón tiếp vì tình yêu Chúa. Năm 1606, Chúa cho Jean hiểu rằng Ngài chọn anh làm trợ sĩ Dòng Cát Minh. Ngược với mọi toan tính của người đời, con người mù lòa nghèo khổ 35 tuổi này được nhận vào Dòng. Từ nay anh sẽ được gọi là Thầy Jean de Saint Samson. Thầy làm nhà tập một mình. Thầy nói: “Thiên Chúa đã không ban cho tôi vị giáo tập nào … Nhưng Ngài đã làm công việc này cho tôi cách tuyệt vời…” Thầy Jean phụ giúp ở nhà bếp, vườn và bệnh xá, nơi Thầy tận tụy không tính toán, ngay cả khi bệnh dịch hạch hoành hành.

Năm 1611, cha Philippe Thibault, Bề Trên ở Rennes, mời Thầy Jean và Mathieu Pinault bạn của Thầy đến giúp cha củng cố cuộc cải cách Touraine. Cha Bề Trên, lo lắng vì trạng thái thần nhiệm của Thầy trợ sĩ, đã thử thách Thầy và ra lệnh cho Thầy kể lại ngắn gọn về tâm nguyện của Thầy. Thầy nói: “Việc cầu nguyện của tôi là hoàn toàn nâng tâm trí lên trên mọi đối tượng khả giác và… được tạo dựng, luôn nhìn Thiên Chúa thu hút tôi… trong sự thống nhất đơn sơ và trơ trụi tinh thần… trong đơn sơ yên nghỉ mà tôi thưởng thức… luôn luôn, dù khi tôi không làm gì cả, hoặc làm việc gì bên trong hay bên ngoài”. Văn phẩm này được trình cho các nhà thần học uyên bác và được nhất trí tán thành.

Với nhiệm vụ huấn luyện thiêng liêng cho tập sinh, Thầy trợ sĩ khiêm tốn này truyền đạt tinh thần cho cuộc cải cách còn non trẻ ở Touraine. Cuộc sống của Thầy thật đơn giản. Thầy dành nhiều thời giờ cho Thiên Chúa. Thầy đàn ở nhà thờ và làm linh hướng, theo lệnh của Bề Trên. Vui tươi và dễ mến, người mù này đón tiếp các tập sinh, linh mục và giáo dân thuộc mọi tầng lớp xã hội. hoàn toàn cởi mở với những vấn đề của họ, người cũng biết mạnh dạn nói sự thật với người ai cần đến. Hiểu rõ con người, nhà chiêm niệm này ý thức bén nhạy về thực tế và biết tìm thấy trong mọi sự “mức trung dung đúng đắn nơi đó có nhân đức thật và sự thiện thật”.

Cơn bệnh cuối cùng ngắn ngủi đã kết thúc cuộc đời Thầy Jean. Từ đêm 3 đến 4.9.1616, Thầy bị sốt và nôn mửa. Bệnh tình trầm trọng nhanh chóng. Thầy được lãnh bí tích Xức Dầu và Thầy “thiết tha, hết lòng xin lỗi tất cả anh em vì tất cả gương xấu của mình…” Thầy đau đớn nhiều và cảm thấy như bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Những lời cuối cùng của Thầy còn nghe rõ: “Tôi chịu đóng đinh Thập Giá với Đức Kitô”. Thầy Jean de Saint Samson phó linh hồn cho Thiên Chúa ngày chúa nhật, 14.9 lễ Suy Tôn Thánh Giá.

Sau khi được các Bề Trên giao việc hướng dẫn tập sinh, Thầy trợ sĩ thánh thiện này đã nhanh chóng biên soạn linh thao cho các tập sinh. Vậy Thầy đọc “rất nhanh, không suy nghĩ, dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, đến nỗi những người chép đều mệt lử!”. Cứ theo lời của Bremond, thì những văn phẩm của Thầy dành cho những “bậc thần bí cao độ”. Định nghĩa sau đây về đời tu như tóm lược giáo huấn của Thầy: “Đời tu là một bậc sống hoàn toàn quên mình và những thụ tạo, bằng một sự phó nộp mình hoàn toàn cho Thiên Chúa. Đi tu, tức là chết và chỉ sống trong Thiên Chúa và vì Thiên Chúa thôi, cho đến khi được tiêu hao trọn vẹn… trong ngọn lửa yêu mến Ngài. Vậy tức là trong một sự nghèo khó hoàn toàn và hoàn hảo trong tinh thần…”; chết “cho tất cả con người cũ” là điều kiện “để cho con người tìm lại nguồn gốc vĩnh cửu của mình” và đi “vào trong Thiên Chúa để tan biến ở đó”. “Ước gì đường lối của anh em ở bên trong hơn bên ngoài và ước gì anh em thống nhất được mọi sự thể theo Thần Khí”.

  1. Các chân phước Denis de la Nativité (Pierre Berthelot)
    và Rédempt de la Croix (Thomas Rodriguez)

Pierre Berthelot sinh tại Honfleur ngày 12.12.1600. còn rất trẻ, người đã chọn nghề hàng hải và du hành sang Tây Ban Nha, Anh Quốc và Hoa Kỳ. Trở thành nhà vũ trụ học và thuyền trưởng đầu tiên của các vua nước Pháp và Bồ Đào Nha, người chứng tỏ lòng can đảm và tài năng, theo như bằng chứng do các bản đồ hàng hải của người còn giữ lại ở British Museum. Sang Ấn Độ, Pierre Berthelot vào Dòng Cát Minh cải tổ năm 1635 tại Goa, người nhận tên Denis de la Nativité và trở thành một nhà chiêm niệm vĩ đại. Năm 1638, phó vương Ấn Độ phái một sứ giả, FranVois de Souza de Castro đến với vua Achén (Sumatra). FranVois xin đem Denis vừa mới chịu chức linh mục đi theo với tư cách linh hướng và chuyên gia về hàng hải và tiếng Mã Lai. Cha Denis, tu sĩ Cát Minh chọn một trợ sĩ cùng Dòng đồng hành, Thầy Rédempt de la Croix, sinh tại Bồ Đào Nha khoảng 1598. Đến Achen ngày 25.10, họ được tiếp rước với những thái độ vui mừng giả tạo, sau đó các ngài bị tống ngục ngay. Denis và Rédempt bị hành hạ nhiều hơn những người khác để dụ các ngài theo Hồi giáo. Sau khi bị kết án tử hình, Rédempt ở trong số những người bị xử tử đầu tiên, còn cha Denis, theo ước muốn của người, chịu tử đạo cuối cùng sau khi ủy lạo tất cả các bạn đồng hành.

  1. Thầy Laurent de la Résurrection

Nicolas Herman sinh năm 1614, tại Hériménil xứ Lorraine trong một gia đình rất đạo đức. Khi 18 tuổi, Thiên Chúa ban cho người một ơn đặc biệt. Một ngày mùa đông, khi trông thấy một thân cây trụi lá và người nghĩ rằng, khi mùa xuân đến, nó sẽ lại nẩy chồi, đơm lá, sinh hoa và kết trái nữa, người cảm thức được quyền năng của Thiên Chúa, Đấng tách người hoàn toàn ra khỏi thế gian và ban cho người long kính mến Chúa bao la.

Vào thời cuộc chiến Ba Mươi Năm, người thanh niên này tòng quân trong hàng ngũ quận công xứ Lorraine, Charles IV. Bị thương năm 21 tuổi khiến người phải rời bỏ chiến trường. Người quyết tâm dâng mình cho Chúa và chỉnh đốn cách sống trong quá khứ của mình. Có lẽ vào lúc đó, người đến phục vụ cho gia đình ông Fieubet, nơi người cho mình là “một người quá vụng về làm đổ vỡ mọi sự”. Sau những cuộc chiến đấu nội tâm kịch liệt, người sống ẩn tu một thời gian với một nhà quý tộc, nhưng người bối rối vì thấy mình trước kia vui vẻ nay lại sầu buồn; trước bình an nay xao xuyến; trước sốt sắng nay khô khan, không có ai hướng dẫn người về mặt thiêng liêng. Năm 1640, người quyết định xin vào Dòng các tu sĩ Cát Minh cải tổ đường Vaugirard ở Paris, người được nhận với tư cách trợ sĩ. Fénelon, sử gia của người viết: “Thầy Laurent, với bản tính tự nhiên thì thô kệch nhưng lại thanh nhã nhờ ơn Chúa. Sự pha trộn này thật dễ thương và cho thấy Thiên Chúa ở nơi Thầy”. Đã lâu rồi không được ai biết đến và bị những đau khổ nội tâm lớn lao xâu xé, cuối cùng, Thầy “dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa, phó thác trọn vẹn về vật chất và tinh thần và lấy làm hài lòng trong việc thực hiện Thánh Ý Chúa”, điều này đã trả lại bình an cho Thầy.

Lần lượt, hết làm bếp lại đóng giày và đi quyên tiền, Thầy biến mọi “công việc bận rộn của mình thành cuộc chuyện trò với Thiên Chúa. Không tính toán, có sao hay vậy, không kiểu cách, chỉ cần đơn chất thôi”. Phương pháp duy nhất của Thầy Laurent có thể nói được là tập hiện diện với Thiên Chúa, tức là “ưa thích… và tập quen sống với Chúa, khiêm tốn và say mê nói chuyện với Chúa không luật lệ và chừng mực nào cả”. Như vậy, “dần dần linh hồn được đưa đến chỗ nhìn thấy Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi và đây là cách nguyện ngắm cao nhất và hữu hiệu nhất”. “Theo đường lối của Thiên Chúa, tư tưởng không đáng bao nhiêu, tình yêu là tất cả”.

Đầu năm 1691, Thầy Laurent ngã bệnh. Vì bệnh tình trầm trọng nhanh chóng, Thầy được lãnh bí tích Xức Dầu. Một tu sĩ hỏi Thầy làm gì và nghĩ gì, Thầy đáp: “Tôi làm điều tôi sẽ làm trong suốt cõi vĩnh hằng: Tôi chúc tụng Thiên Chúa; tôi ca ngợi Thiên Chúa; tôi tôn thờ và yêu mến Ngài hết lòng tôi; tất cả nghề nghiệp của chúng ta là ở đó, thưa anh em; thờ phượng Thiên Chúa và yêu mến Ngài, không lo lắng điều gì khác”. Không trải qua cơn hấp hối, nhưng “trong bình an và yên tĩnh, của một người đang ngủ”. Thầy Laurent qua đời ngày 12.2.1691. Chính cha de Beaufort, tổng đại diện của Hồng Y de Noailles, qua Lời ca tụng Thầy Laurent de la Résurrection, và việc xuất bản các tác phẩm Phong cách, Châm Ngôn và Đàm thoại của người, đã lưu truyền cho hậu thế học thuyết thiêng liêng của vị trợ sĩ thánh thiện này; đã qua hơn ba thế kỷ mà học thuyết này không lỗi thời vì nó mang dấu ấn đơn sơ và chân thật.

  1. Thánh Têrêxa-Margarita Thánh Tâm Chúa Giêsu

Anne-Marie Redi sinh tại Florence ngày 15.7.1747. lên 6 tuổi, em là một nhà chiêm niệm nhỏ bé, vấn nạn em đặt ra cho mọi người mà em  đoán là họ có thể trả lời cho  em: “Xin cho em biết Thiên Chúa là ai vậy ?” (SC 370). Trong thời gian học tập, đời sống thiêng liêng của em được đào sâu, nhất là về bí tích Thánh Thể, Thánh Tâm và Thánh Mẫu. Lúc 17 tuổi, Anne-Marie vào Dòng Cát Minh thánh Têrêsa tại Florence, nơi mà, ngày 11.3.1765, chị lãnh tu phục với tên dòng là Margarita Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Một sáng chúa nhật nọ, vào kinh giờ Ba, có lời này của thánh Gioan: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8), trở thành ánh sáng chói chang đối với chị, đã ghi dấu ấn không phai mờ trong chị. Chị được hiểu biết và sống những sự phong phú của mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong tâm hồn. Tình yêu này được mặc khải cho chị, “là tình yêu mà Thiên Chúa yêu chính mình từ thuở đời đời, Thần Khí của Thiên Chúa, tức là Sự Sống và Hơi Thở của Ngài, Chúa Thánh Thần… Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa lưu lại trong người ấy: điều này muốn nói là người ấy sống chính đời sống của Thiên Chúa và có thể nói được là Thiên Chúa sống đời sống của người ấy” (SC372). Cuộc đời rất vắn vỏi của thánh nữ dành để đáp trả tình yêu Thiên Chúa, nhất là bằng một tình bác ái anh dũng đối với đồng loại. Như vậy, từ khi tuyên khấn, người phải chăm sóc một bệnh nhân tâm thần suốt nhiều tháng trời trong một bệnh viện thuộc Đan Viện của người, bệnh nhân này luôn luôn hành hạ người.

Chị Têrêxa Margarita để lại rất ít văn phẩm. Hầu như chỉ có những lời chứng của vị linh hướng cho chị, nó giúp đưa chúng ta vào trong bí mật của cuộc đời thinh lặng này “ẩn giấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa” (Col 3,3). Vai trò của chị không phải làm “Thầy”, nhưng là “chứng tá sống động” cho linh đạo Cát Minh, một Dòng không thỏa hiệp.

Chẳng một sự kiện phi thường. Được đâm rễ trong đời sống đối thần và nhờ đức tin sống động đã trở thành kinh nghiệm, thánh nữ đã tiến sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Một năm trước khi người qua đời, người được vị linh hướng cho phép để sống nơi nội tâm cuộc sống ẩn dật của Đức Kitô. Không những người muốn sống như thể không ai nhìn thấy và biết đến mình, mà có thể nói, chính mình cũng không biết đến mình nữa và chết đối với bản thân mà không hay biết, chôn vùi trong Đức Kitô mọi ý nghĩ và suy tư về  mình, dù cả trong lãnh vực thiêng liêng. Lúc bấy giờ, Thiên Chúa dẫn người vào sa mạc của sầu muộn nội tâm. Ở tuổi 22, sau 18 tiếng đồng hồ đau nhói do chứng viêm màng bụng, chị Têrêxa Margarita qua đời trong Thiên Chúa ngày 7.3.1770.

  1. Các nữ chân phước tử đạo Dòng Cát Minh ở Compiègne

Ngày nay, các nữ đan sĩ Cát Minh ở Compiègne không xa lạ gì đối với chúng ta. Gertrude von Le Fort với quyển La dernière à l’échafaud (người cuối cùng lên đoạn đầu đài) và Georges Bernanos với quyển Les dialogues des Carmelites (Người cuộc đối thoại của các nữ đan sĩ Cát Minh) đã đưa họ ra khỏi sự quên lãng. Những tác phẩm này, gây xúc động bởi sức sống mãnh liệt của chúng khiến chúng ta dễ dàng tha thứ cho những điều xa sự thật lịch sử trong đó.

Dòng nữ Cát Minh ở Compiègne thế kỷ XVIII ư ? Một Đan Viện Cát Minh như những Đan Viện Cát Minh khác thôi. Trong đó, những người nữ sống chung với nhau, nhưng họ rất khác nhau về tuổi tác, môi trường, phong cách. Điều đặc sắc nhất là tất cả các chị ấy yêu thương nhau bằng một tình cảm chân thành, sâu đậm, rất thân thiết. Dấu hiệu được tiền định chăng ? Có lẽ, vì theo lời của cha Bruno de Jésus-Marie, Dòng Cát Minh, trong sách Le sang du Carmel: “Càng lên cao trong lòng mến, càng có đủ khả năng chịu tử đạo”.

Bộ mặt của cộng đoàn này thế nào khi cuộc khủng bố thời Cách Mạng Pháp thình lình xảy đến ? Hăng say, quân bình, thông minh, đầy lòng nhân từ và lương tri, Mẹ Thérèse de Saint Augustin đã đắc cử Bề Trên năm 1787 khi được 35 tuổi. Nữ tu Saint – Louis, đăm chiêu, hiền lành và khiêm nhượng, 41 tuổi làm phó- Bề Trên. Nữ tu Jésus – Crucifié, lo phòng thánh, 78 tuổi, rất khiêm nhượng, hồn nhiên và đầy bác ái. Chị Charlotte de la Résurrection, 78 tuổi, nhanh nhẹn và rất tài giỏi với nhiệm vụ lo nhà kho và bệnh xá. Chị Euphrasie, 58 tuổi, thông minh và đầy trí tưởng tượng, tính tình linh hoạt và đầy mâu thuẫn là linh hồn của những giờ giải trí. Mẹ Henriette, cháu của Colbert, 49 tuổi, nhiệt tình, nhạy cảm, xuất sắc và vui tươi, được dẫn đến cùng Thiên Chúa bằng tình yêu: người đã chu toàn nhiệm vụ giáo tập. Chị Thérèse du Coeur de Marie 52 tuổi, tài trí, khôn ngoan, cẩn mật, lo giữ bàn xoay. Chị Thérèse de Saint Ignace, 51 tuổi, lo vật tư, là một nhà đại chiêm niệm, bao giờ cũng thanh thản và bình tĩnh. Chị Julie-Louise, 52 tuổi, đã lập gia đình năm 18 tuổi để trốn tiếng Chúa gọi. Góa chồng, sau cùng chị đầu hàng Thiên Chúa và vào Dòng Cát Minh, nơi mà con người độc đáo này trở nên khiêm tốn, nhã nhặn và vui vẻ. Chị Marie Henriette, khá tài trí, cương nghị và chính trực, được bổ nhiệm làm y tá phụ. Còn chị tập sinh Constance, 29 tuổi, người ta chỉ biết lòng yêu mến đời tu và lòng trung thành bền vững của chị. Cộng đoàn còn có ba chị trợ sĩ. Rất lanh lợi với tính khí hoạt động: chị Marie du Saint-Esprit, 51 tuổi, kiên nhẫn chịu đựng bệnh tật của mình. Chị Sainte – Marthe, 52 tuổi, “cởi mở tâm hồn hơn lòng trí”, tuy nhiên, chị vẫn là niềm vui và an ủi cho các Bề Trên của chị. Chị FranVois-Savie, 30 tuổi, rất thật thà, vui tươi, chất phát, trả lời với Mẹ Bề Trên khi Mẹ lưu ý chi về mối nguy tuyên khấn năm 1789: “Miễn là con được hạnh phúc dâng mình cho Thiên Chúa, đó là điều duy nhất con ước mong!”. Lại có hai nữ tu nhà ngoài của Đan Viện Cát Minh Compiègne là: chị Catherine Soiron, 52 tuổi, được nhận vì sự khôn ngoan và đạo đức của chị và em ruột chị là Thérèse Soiron, 46 tuổi, “có lòng tốt đến nỗi ai cũng yêu mến”.

Ba nữ đan sĩ đã qua đời giữa những năm 1790 và 1795 và ba chị nữa đã thoát khỏi cuộc bách hại vì bị giam giữ nơi khác, trong số này có chị Marie de l’Incarnation, con ngoại hôn của ông hoàng de Conty, chị là sử gia tương lai nhiệt tình và chân thật của các chị em cùng Dòng. Một tập sinh, tiểu thư de Grand Rut, vắng mặt vì lý do sức khỏe. Phải chăng chị này đã cảm hứng cho Gertrude von Le Fort nhân vật Blanche de la Force ?

Ngày 18.2.1790, chính phủ cách mạng hủy bỏ tất cả các dòng tu. Ngày 14.8 các nữ đan sĩ bị hỏi cung. “Thấy rằng tất cả cố gắng của họ đều vô ích để cho chúng tôi có được một sự tự do lố bịch”, Mẹ Marie de l’Incarnation đã nói thế, công an rút lui. Đến lễ Phục Sinh năm 1792, chị em nhớ lại rằng có một nữ tu qua đời vào đầu thế kỷ đã nằm mơ thấy “cộng đoàn lên trời, mặc những chiếc áo choàng trắng”. Có thể là cùng năm ấy, Mẹ Bề Trên đề nghị chị em dâng mình chịu tử đạo để Giáo Hội và đất nước được hòa bình. Ngày 12.9, sau khi được lệnh rời khỏi tu viện ngay lập tức, các nữ đan sĩ Cát Minh phân tán thành bốn nhóm trong thành phố. Người ta lục soát nhà và khám phá nơi ở của các chị có những giấy tờ gây liên lụy, và nhất là các tượng ảnh Thánh Tâm và cả bài hát tôn vinh Thánh Tâm Chúa. Tháng 6.1794, tất cả các chị đều bị bắt. Bị chuyển trên những chiếc xe chở hàng về Conciergerie, năm ngày sau, 12.7, cộng đoàn được đưa đến phòng điều tra để bị xét xử. Các nữ tu vui mừng và thanh thản đón nhận án tử hình. Vì bản tố cáo xem các nữ tu là “cuồng tín”, chị Marie Henriette, bất chấp những lời chửi rủa, hỏi nhiều lần Fouquier-Tinville xem ông muốn nói gì với danh từ ấy. Quá mệt mỏi, cuối cùng ông trả lời: “Tôi muốn nói các bà quá gắn bó với những tín ngưỡng trẻ con, với những cách hành đạo ngu xuẩn”. Và chị Henriette reo lên: “Chúng ta hãy vui mừng, chúng ta sẽ chết vì sự nghiệp đạo thánh của chúng ta, vì đức tin của chúng ta”. Một chứng nhân nhìn thấy các nữ tu rời phòng ấy với vẻ mặt rạng rỡ niềm vui.

Sau vài phút ngắn ngủi đợi chờ, người ta bắt các nữ tu lên các “xe mồ”. Dọc đường, các chị hát Thánh vịnh 50, kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và kinh Tạ Ơn Te Deum, dưới sự thinh lặng đầy kính trọng của quần chúng. Đến dưới chân đoạn đầu đài, các chị hát vang kinh Chúa Thánh Thần và từng người một tuyên lời hứa khi chịu phép Thánh Tẩy và lời khấn dòng. Rồi Mẹ Bề Trên xin được chết cuối cùng. Chị tập sinh Constance được gọi lên trước hết, chị quỳ xuống nhận phép lành của Mẹ Bề Trên rồi vừa hát vừa bước lên máy chém. Mẹ Thérèse de Saint Augustin chúc lành cho từng chị với bức ảnh Đức Mẹ trong tay. Tiếng hát dần dần thưa đi, chỉ còn lại một giọng thôi. Mẹ Bề Trên bỏ lại sau lưng mình bức tượng Đức Mẹ và nhanh chóng bước lên các bậc thang cuối cùng của máy chém. Lưỡi dao phập xuống. Thinh lặng… Những tên lính quên đánh trống… Một cộng đoàn tử đạo, sự thánh thiện chuyển sang bình diện cộng đoàn, đó chẳng phải là một dấu hiệu sáng chói cho thời đại chúng ta ư ?

  1. Thánh nữ Joachime de Vedruna

Joachime de Vedruna sinh tại Barcelone ngày 16.4.1783. Từ thuở bé, mọi sự đều nói với người về Thiên Chúa và người cảm thấy được thúc đẩy dâng cho Ngài những hành động nhỏ nhặt nhất. Lên 12 tuổi, người xin được vào Dòng Cát Minh ở thành phố của người và bị từ chối. Chưa tròn 16 tuổi, Théodore de Mas xin được cưới người. Chính Theodore cũng đã cảm thấy đời tu thu hút mình, nhưng cha mẹ cậu chống đối việc này, vì cậu là con trưởng và thừa kế một dòng tộc vẻ vang. Lễ cưới được tổ chức ngày 24.3.1799. với một tình yêu trong sáng, Joachime nuôi dưỡng 9 đứa con. Khi vua Napoléon tấn công nước Tây Ban Nha, Théodore, dòng dõi chiến binh gan dạ, tự nguyện tòng chinh cứu nước. Với một thiểu số người nhưng dũng cảm, ông đã bảo vệ gần Vich một pháo đài mà kẻ xâm lăng không hạ được. Trong hoàn cảnh nghèo túng tột độ, lại lo lắng cho chồng con, Joachime biểu lộ nghị lực tâm hồn và niềm tin tưởng vào Chúa Quan Phòng. Kiệt sức vì chiến tranh và các hậu quả của nó, Théodore qua đời, trong lúc vợ ông mới 33 tuổi. Cùng lúc đó, dường như thiếu phụ nghe tượng Chúa chuộc tội lớn treo trong phòng nói với người: “Bây giờ con đã mất chồng dưới thế rồi, Ta sẽ chọn con làm hiền thê” (SC 220). Sau khi còn ở lại Barcelone để bênh vực quyền lợi của con cái chống lại một người bà con hám của, Joachime lui về Vich, trong vùng độc chiếm Manso Escorial mà chồng đã di tặng cho bà để nuôi dưỡng giáo dục con cái, trong số đó 3 người chết lúc còn bé, 4 người đi tu và 2 người lập gia đình.

Chu toàn xong bổn phận làm mẹ, người quả phụ nghĩ đến việc vào tu một dòng khắc khổ. Nhưng qua sự linh hướng của cha Etienne di Olot, Dòng Phanxicô ở Vich, Thiên Chúa cho người biết rằng Joachime phải sáng lập một hội dòng chuyên lo giáo dục các thiếu nữ và chăm sóc bệnh nhân. Joachime vâng phục và lập lại lời “xin vâng” với Chúa. Ngày 6.1.1829, bà tuyên khấn Dòng Cát Minh bác ái trong tay Đức Giám Mục ở Vich, người khuyến khích việc lập dòng này. Ngày 26.2 năm sau, được 9 chị dự tu bao quanh, bà dự Thánh Lễ tại nhà thờ các cha Dòng Phanxico, rồi bắt đầu một cuộc sống mới tại Manso Escorial. Thiếu thốn và đầy dẫy khó nhọc, nhưng lòng mến của vị Bề Trên làm mọi người có thể chịu đựng. Được truyền đạt cho Hội Dòng, tình mẫu tử này trở thành một yếu tố cơ bản cho nền giáo dục các thiếu nữ của thánh Joachime.

Mầm cây bé nhỏ đã phát triển giữa những cuộc bách hại, thử thách và mâu thuẫn, theo lời thánh nữ, đó là dấu chỉ công cuộc này là của Thiên Chúa. Lúc người còn sinh thời, tất cả vùng Catalogne bao phủ như một mạng lưới toàn những nhà của bà. Năm 1849, Mẹ sáng lập bị một cơn đau đầu tiên và những cơn đau khác tiếp tục hoành hành khiến người ta thấy bà như bị dị dạng như bà vẫn cầu xin Thiên Chúa như thế. Ngày 28.8.1854, cơn đau cuối cùng làm cho người hoàn toàn suy sụp và vài giờ sau, phát hiện nơi bà những triẹu chứng của bệnh dịch tả, đang hoành hành lúc đó. được tình thương của chị em trong Dòng bao bọc, Joachime “thanh thản yên giấc trong Chúa”.

  1. Chân phước Élisabeth Chúa Ba Ngôi (Nay là được phong hiển thánh)

“Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi mà con tôn thờ, xin giúp con hoàn toàn quên mình để định cư trong Chúa, bất động và yên tĩnh như thể hồn con đã vào nơi vĩnh cửu… Ôi lạy Chúa Ba Ngôi của con, là Mọi Sự đối với con, Phúc Lạc của con, Cô Tịch vô biên, Bao La trong đó con mất hút, con phó nộp cho Chúa như một con mồi…” (ET II, 125). Lời kinh này của chị Élisabeth Chúa Ba Ngôi, lừng danh trên khắp thế giới, như tóm tắt đời sống sâu xa của chị.

Élisabeth Catez sinh ngày 18.7.1880 trong một gia đình rất đạo đức. Thân sinh chị, một sĩ quan, qua đời đột ngột vài năm sau đó và bà Catez phải một mình lo việc nuôi dưỡng hai cô con gái của bà. Élisabeth, trưởng nữ, “lanh lợi, hăng say, đam mê… bướng bỉnh” (ET II,16) có đặc điểm là rất nhạy cảm (ET II, 121) dần dần học biết thắng mình vì mến yêu, người ta khám phá rất sớm tài năng âm nhạc của cô và lúc 13 tuổi, cô đã đạt giải nhất dương cầm tại trường quốc gia âm nhạc ở Dijon.

Một năm sau, sau một lần Rước Lễ, Élisabeth nhận thấy Chúa gọi và hồn nhiên đápi bằng lời khấn đồng trinh. Nhưng bà Catez muốn thử thách ơn gọi của con mình và bắt chờ đến tuổi trưởng thành. Cô thiếu nữ âm thầm đau khổ và rất đơn sơ tham gia cuộc sống xã hội thượng lưu: “Cô có vẻ thích thú lắm trong các buổi dạ hội” (ET II 20). Nhưng thực ra, cô nói: “Khi con tham dự các buổi hội hè này, niềm an ủi của con là hồi tâm và thụ hưởng sự hiện diện của Chúa” (ET II, 96). Cảm thấy có Thiên Chúa ngự nơi mình, Élisabeth xin cha Vallée, Dòng Đaminh giải thích cho. Vậy cha đã tỏ bày cho chị thế nào là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trong tâm hồn. Đây là một ánh sáng định hướng mà chị đã sống cho đến hết đời. Chị Élisabeth đã nhận được những ơn cao cả và nhận ra mình trong những điều mà thánh Têrêsa Avila mô tả về cầu nguyện được Thiên Chúa xâm chiếm. (ET II,32).

Ngày 2.8.1901, chị Élisabeth được vào Dòng Cát Minh ở Dijon nơi mà buổi tối đầu tiên sự trầm lặng phi thường của chị đã đánh động các nữ đan sĩ. Chị dễ dàng thích nghi: “Mọi sự đều thú vị trong Dòng Cát Minh, ta tìm thấy Thiên Chúa ở nhà giặt cũng như trong nguyện ngắm, chỉ có Ngài khắp mọi nơi” (ET 1b 42-43). Những tháng đầu tiên, chị được ngập tràn ơn Chúa. Nhưng sau khi lãnh tu phục, chị sống trong tối tăm và khô khan mà chị đã chấp nhận cách sâu xa. Ánh sáng chỉ trở lại cùng chị ngày chị khấn dòng (6.1.1902).

Mùa hè 1905, một đoạn thư thánh Phaolô gởi giáo đoàn Êphêsô rực sáng mãnh liệt đối với nữ đan sĩ trẻ: “Chính trong Đức Kitô mà chúng ta đã được tiền định để trở nên lời ngợi khen vinh quang của Người, và chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô” (Ep 1,12). Chị khám phá nơi đó hướng đi sâu xa ơn gọi cá nhân của chị, “một tên mới” (Kh 2,17) của chị: Lời ngợi khen vinh quang, Laudem Gloriae, “một lời ngợi khen vinh quang là một tâm hồn thinh lặng, như chiếc đàn thập huyền cầm  dưới phím đàn nhiệm mầu của Chúa Thánh Thần, quy về Thiên Chúa trong niềm tin và sự đơn sơ” (ET 1a 124). Dường như đời sống thiêng liêng của chị Élisabeth Chúa Ba Ngôi rất sớm được thống nhất trong đam mê duy nhất của chị: Đức Kitô, Ba Ngôi Thiên Chúa, “… mỗi giây phút được ban cho chúng ta để chúng ta ‘đâm rễ sâu’ hơn trong Thiên Chúa… Để thực hiện chương trình này, bí quyết là: quên mình, rời bỏ mình, không đếm xỉa đến mình, nhìn vị Tôn Sư và chỉ nhìn thấy Ngài mà thôi” (ET 1b 474). Điều này không ngăn cản chị yêu thương tha nhân, tất cả mọi người khác, “với con tim rộng lớn của chị tràn đầy tình thương” (ET 1b 405).

Những triẹu chứng đầu tiên của bệnh thận làm cho nước da chị bị nám màu đồng (Addison), nan y vào thời ấy, đã lộ ra suốt mùa Chay 1906, chị Élisabeth được chuyển đến bệnh xá. Càng ngày chị càng chìm sâu trong Thiên Chúa. “Trước khi chết, tôi ước mơ được biến đổi thành Đức Kitô chịu đóng đinh Thập Giá và điều này đã cho tôi biết bao sức mạnh trong đau khổ” (ET 1b 459). Niềm hăng say tông đồ đã xuyên qua tất cả cuộc đời chị, ngày càng tăng trưởng: “Ôi! Đấng Tình Yêu, xin làm cho thân xác con hao mòn vì vinh quang của Ngài, chớ gì nó được cô đọng lại và nhỏ từng giọt một vì Giáo Hội của Ngài!” (ET 1a 19). “Tôi hiểu rằng đau khổ là mặc khải của tình yêu” (ET 1b 457). Ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chị nghe vang lên từ thâm tâm những lời này: “Nếu ai yêu mến Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Đồng thời Ba Ngôi Thiên Chúa tự mặc khải cho bệnh nhân nơi trung tâm sâu kín nhất của chị, và sự hiện diện này không bao giờ bị xoá mờ.

Căn bệnh theo đuổi công trình của nó một cách không xót thương. Những lời cuối cùng của chị còn nghe rõ được khi chị đang hấp hối như là một khúc ca: “Tôi đi đến cùng ánh sáng, tình yêu, sự sống …” Ngày 9.11 chị Élisabeth mất hút vĩnh viễn trong cung lòng Ba Ngôi diễm phúc. Nhưng công việc trần thế của “vị ngôn sứ của Thiên Chúa cho thời đại chúng ta”, như Đức Cha Decourtray đã gọi chị như thế, chưa vì thế mà kết thúc. Sứ điệp thiêng liêng của chị, hôm nay được truyền đi khắp thế giới, mang tính thời sự lạ lùng cho thời đại chúng ta mà, dường như bừng dậy niềm khao khát Đấng Tuyệt Đối, nhất là nơi giới trẻ.

  1. Chân phước Titus Brandsma

Dachau, mùa hè 1942, Walter Thiel, trưởng phòng của trại 28, vừa mới đánh đập đến bất tỉnh một tù nhân nhỏ người, ốm yếu. Cha Titus Brandsma khó nhọc chỗi dậy, mặt mày vấy máu. Bạn bè bao quanh cha. Bình tĩnh, tươi cười, người xua đi mọi lời bàn tán. Con người này là ai mà không gì có thể phá nổi sự bình an của người ?

Anno Sjoerd Brandsma sinh ngày 21.2.1881 tại Bolsward, một thành phố nhỏ phía bắc Hà Lan. Người thuộc dòng dõi những nông dân vững chắc xứ Hà Lan mà óc thực tế không loại trừ lý tưởng: năm người con trong gia đình, trong số đó, hai người con trai dâng mình cho Chúa.

Anno không có vóc dáng của người làm việc đồng áng, nhưng người ta sớm nhận ra trí thông minh lanh lợi và sâu sắc. Khi tốt nghiệp trung học cách xuất sắc, cậu gia nhập Dòng Cát Minh nguyên thủy ở Boxmeer ở tuổi 17. Linh đạo Cát Minh đặt trọng tâm vào cầu nguyện đã chinh phục được Thầy, chương trình học triết và thần học của Thầy bị gián đoạn nhiều lần do cơn bệnh kéo dài, điều này vẫn không làm người mất bình tĩnh và nụ cười. Sau khi lấy bằng tiến sĩ triết học tại Roma, cha Titus trở về Hà Lan, quyết tâm sống đến cùng ơn gọi Cát Minh của mình. Trở thành Giám Tỉnh, người cùng với Hubert Driessen, bạn người, cộng tác vào việc canh tân thiêng liêng Dòng. Tâm hồn tông đồ của người thức tỉnh. Người luôn luôn bị sâu xé giữa ước muốn sống cô tịch với Thiên Chúa và nhu cầu đem Ngài cho thế giới. Năm 1911, cha Titus bắt đầu viết và thành lập một tạp chí “Carmelrozen” –  một năm sau, có 11.000 độc giả đăng ký dài hạn.

Năm 1923, Đức Cha Van de Wetering, Tổng Giám Mục Utrecht, được phép lập một đại học công giáo tại Nimègue, đã mời cha Titus dạy môn triết và lịch sử khoa thần bí, người chọn soạn tài liệu cho môn này vì cảm thấy hợp với sở trường của người. Cùng với vài đồng nghiệp, người sáng lập tạp chí quan trọng “Ons geestelijk Erf” (Di sản thiêng liêng của chúng ta). Không bao lâu, số thành viên trẻ xin vào Dòng quá đông nên cần phải lập một tu viện tại Nimègue, và chính cha Titus, Bề Trên của họ, có nhiệm vụ này.

Vị tu sĩ ốm yếu này cảm thấy mình bị cuốn hút vào một hoạt động quá bận rộn: vô số cuộc diễn thuyết, biên soạn hàng trăm bài báo, tận tụy hết mình cho những lợi ích cao trọng đối với người, trong đó có sự hiệp nhất các Kitô hữu.

Năm 1935, được Đức Tổng Giám Mục Utrecht bổ nhiệm làm cố vấn quốc gia cho báo chí công giáo. Vị tu sĩ Dòng Cát Minh này không hề ngờ rằng, 7 năm sau, chức vụ này đã gây nên cái chết cho người. Đàng khác, con người đơn sơ, ngay thẳng này chiếu tỏa lòng nhân từ và tính khôi hài, thu hút rất nhiều người đến viếng thăm, trình bày cho người nhiều vấn đề của họ. Con người bệnh hoạn này kín múc tất cả sức lực của mình trong đời sống nội tâm: Sự cầm trí sâu thẳm của người, nhất là khi dâng Thánh Lễ, đánh động những người tham dự sâu xa. Việc người kết hợp với Thiên Chúa cũng được biểu lộ qua sự tự chủ và niềm vui không bao giờ cạn. Nếu cha Titus kín đáo về tương quan của người với Thiên Chúa, người đã để lộ ra, tuy không muốn, trong các bài viết của người về thần bí và nhất là trong bài diễn văn khai mạc tại Dies academicus năm 1932. Người nói: “Đối với thời đại chúng ta, điều chính yếu là tìm lại Thiên Chúa như là nền tảng hữu thể chúng ta, trước hết, bằng lý luận rồi bằng một cái nhìn chiêm ngắm đơn giản không bao giờ ngừng… Tìm gặp Thiên Chúa còn ở trong sự hòa hợp của ta với vũ trụ, với con người và với toàn thể thế giới. Chúng ta phải mang hình ảnh sống động của Thiên Chúa đến cho những người đương thời với chúng ta: đó là cách duy nhất để chinh phục họ về với Ngài” .

Từ năm 1937, những biểu hiệu về sức khỏe nối tiếp nhau. Tháng 5.1940, quân đội của Hitler xâm chiếm nước Hà Lan. Chế độ mới tấn công các trường công giáo. Cha Titus, chủ tịch các hiệu trưởng những trường ấy, phản ứng mạnh mẽ. Ngày 18.12.1941, quân Đức quốc xã tìm cách chiếm lấy báo chí công giáo. Vị tu sĩ Cát Minh anh dũng phản kháng bằng cách gởi cho tất cả các tòa soạn một thư luân lưu, sẽ trả giá bằng chính mạng sống của người: Báo chí công giáo thà ngưng xuất bản hơn là vâng phục kẻ xâm lăng. Cha biết những gì chờ đợi cha.

Ngày 19.1.1942, sau khi cử hành Thánh Lễ – Thánh Lễ cuối cùng đời cha – giáo sư Titus bị hai nhân viên Gestapo bắt giữ. Tại Scheweningen, người bị hỏi cung lâu giờ. Người cầu nguyện, viết lách. Một tâm sự cảm động: “Ô, nơi đây tôi ở một mình, đúng thế, nhưng không bao giờ Chúa Giêsu gần gũi tôi đến thế! Tôi muốn hô vang niềm vui của tôi, vì một lần nữa, Ngài đã cho tôi tìm thấy Ngài trọn vẹn”. Chuyển về trại Amersfoort, nơi mà hàng trăm con người chồng chất lên nhau, đói và khát, bị quân SS ngược đãi. Cha Dòng Cát Minh giải tội, nói về Thiên Chúa; chỉ cần người hiện diện tươi cười là sự bình an trở lại. Ngày 13.6.1942, toa xe của nhà giam chở người về Dachau.

Những tù nhân mới đến bị đối xử tàn bạo ghê tởm. Bệnh của cha ngày càng trầm trọng. Một tên SS cười nhạo nói với cha: “Chẳng bao lâu nữa, ông có thể mừng lễ Thăng Thiên của ông qua ống khói lò thiêu”. Bắt làm việc đồng áng mệt nhọc, cha kiệt sức. Tại khu bệnh nhân, cha rơi vào tay những thầy thuốc làm thử nhiệm. Hai ngày sau, người hôn mê. Ngày 26.7.1942, người ta chích cho người một mũi thuốc “đặc xá”. Mười phút sau, cha Titus  Brandsma từ giã bóng tối cuộc đời này để đi vào ánh sáng vĩnh hằng.

  1. Thánh Thérèse-Bénédicte de la Croix (Edith Stein)

Edith Stein sinh tại Breslau ngày 12.10.1891, con thứ bảy và là út của một gia đình Do thái đạo đức. Hai năm sau, thân sinh người qua đời đột ngột để lại cho vợ việc nuôi dưỡng con cái và điều khiển việc buôn bán gỗ quan trọng. Thông minh phi thường, Edith học tiểu học và trung học dễ như chơi. Vào đại học Breslau năm 1911, chị ghi tên học triết. Sau khi khám phá các công trình nghiên cứu hiện tượng học của ông Edmond Husserl, Edith xin được theo học tại Gottingen, nơi ông ấy dạy. Năm 1916, người theo bậc Thầy của mình đến Fribourg ở Brisgau và đỗ tiến sĩ xuất sắc với  luận án rất được người ta rất chú ý đến: “Zum Problem der Einfuhlung”. Ngay sau đó, ông Husserl chọn người làm phụ tá. Nhưng môn hiện tượng học không thỏa mãn được niềm khao khát tìm kiếm chân lý của người. Edith cảm thấy chân lý như ở cõi bên kia.

Cho đến lúc 21 tuổi, cô sinh viên tự cho mình là vô thần. Tuy thuộc về dân tộc Do thái, và tình liên đới của cô với dân tộc là một khía cạnh nổi bật cá tính của cô, nhưng về mặt tôn giáo, cô không tỏ ra quan tâm đến Do thái giáo. Trong câu lạc bộ các nhà hiện tượng học, lần đầu tiên cô sinh viên này gặp được Kitô giáo. Tính thanh thản của người vợ triết gia Reinach, sau cái chết của chồng bà, gây xúc động sâu sắc cho cô: “Ngay lúc đó, lòng cứng tin của tôi tan biến…, và Đức Kitô chỗi dậy trong ánh sáng, Đức Kitô trong mầu nhiệm Thập Giá”. Thiên Chúa đã bước vào đời cô và biểu lộ cho cô sự hiện diện của Ngài như thế đó. “Vào thời ấy, ước muốn chân lý của tôi là một lời cầu nguyện thực sự”.

Chân lý này là một Ngôi Vị (Ga 14,6). Ngài hiến mình cho ai sẵn sàng đón nhận Ngài. Một tối nọ, ở một mình trong nhà một người bạn, triết gia Hedwige Conrad-Martius, Edith tình cờ cầm lấy quyển sách: Tiểu sử Thánh Têrêsa Avila. Bị thu hút ngay, người chỉ dừng lại ở trang cuối cùng. Xếp sách lại, người tự nhủ: “Đây là chân lý!”. Người mua một quyển sách Giáo Lý và quyển Sách Lễ và tự mình chuẩn bị lãnh bí tích Thánh Tẩy. Ngày 1.1.1922, Edith bày tỏ cho  mẹ biết ý định theo đạo Công Giáo, lần đầu tiên trong đời, bà Stein oà lên khóc nức nở.

Đồng thời với ơn trở lại Đạo, Edith đã nhận được ơn gọi để vào Dòng Cát Minh, nhưng các vị linh hướng kinh nghiệm của người, trong nhiều năm, phản đối việc người vào Dòng, do bởi ảnh hưởng và tài năng xuất chúng mà người thi thố trong các môi trường công giáo. Người dạy học ở trường các nữ tu Dòng Đaminh ở Spire, nơi đó người dịch các bức thư và Nhật Ký của Hồng Y Newman cho đến khi người gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Cuộc gặp gỡ với thánh Thomas thúc giục triết gia Edith tìm kiếm một mối liên hệ hữu cơ giữa khoa kinh viện triết học và hiện tượng học. Để làm quen với vị tiến sĩ thiên thần, người dịch quyển “De Veritate” sang tiếng Đức. Thời gian ấy, Edith cũng soạn những bài nghiên cứu và diễn thuyết về sứ mạng của phụ nữ. Năm 1931, Edith từ giã Spire và năm sau, nhận dạy học tại trường cao đẳng sư phạm ở Munster.

Trong lúc đó, chế độ độc tài Hitler lên nắm quyền tại Đức. Tức khắc, những khuynh hướng bài Do thái xuất hiện rõ ràng. Năm 1933, Edith Stein băn khoăn vì đạo luật bài trừ những người không thuộc dòng giống Aryens ra khỏi các chức vụ công khai. Lúc đó, vị linh hướng của người, Dom Raphael Walzer, viện phụ Beuron, mới cho phép người theo ơn gọi Dòng Cát Minh. Cha nói về người: “Đã lâu trước khi vào Dòng Cát Minh, chị đã hoàn toàn siêu thoát, hoàn toàn chìm đắm trong Chúa”.

Sau khi từ giã mẹ, thật đau lòng, Edith Stein bước qua ngưỡng cửa nội vi Dòng Cát Minh ở Cologne ngày 14.10.1933. Người sẽ viết trong sách “Sciene de la Croix” (Khoa học Thập Giá): “Hiến dâng chính mình đồng thời cũng là sở hữu bản thân cách táo bạo nhất, vượt lên trên mọi sự hiểu biết của con người” (KW 101). Edith quyết tâm dâng mình như thế, lời tâm sự độc nhất ngày chị khấn trọn với một thỉnh sinh đã hồn nhiên hỏi chị: “Chị cảm thấy thế nào ?”. Chị đáp lại với một giọng xúc động: “Như hiền thê của Chiên Con”.

Theo lệnh cha Giám Tỉnh Dòng Cát Minh, chị Thérèse Bénédicte phải tiếp tục công trình triết học của chị sau khi lãnh tu phục. Trước hết, chị hoàn tất công việc quan trọng là đối chiếu hai học thuyết của thánh Tôma Aquin và hiện tượng học nhằm đạt đến một sự hòa hợp hai hệ thống triết học đã gặp nhau nơi chị, sau khi trở lại Đạo. Tác phẩm này được xuất bản dưới nhan đề: “Être fini et Être éternel” (Hữu thể hữu hạn và hữu thể vĩnh hằng). Các Bề Trên của chị cũng cho phép chị tiếp tục lịch sử gia đình chị.

Khoảng năm 1938, cuộc bách hại người Dothái tại Đức đã đến cực điểm. Chị Thérèse Bénédicte đau khổ mãnh liệt cùng với dân tộc chị. Từ nay, việc chị ở lại Dòng Cát Minh Cologne là một mối nguy hiểm lớn cho bản thân chị và cả cộng đoàn. Việc chuyển chị về Đan Viện Echt ở Hà Lan được quyết định, và trong đêm 31.12.1938, chị đã bí mật vượt qua biên giới. Chúa nhật Thương Khó 1939, chị xin Bề Trên cho chị được dâng mình cho “Thánh Tâm Chúa Giêsu làm của lễ đền tội để cầu xin hòa bình thực sự… Con chỉ là hư vô, nhưng Chúa Giêsu muốn vậy…” Thiên Chúa đã chấp nhận của lễ.

Chính tại Echt mà Edith đã viết kiệt tác của chị: “La Sienne de la Croix” (Khoa học Thập Giá), đã hoàn tất kinh nghiệm sống mầu nhiệm này. Trong sách này, chị muốn cho thấy rõ hơn học thuyết của thánh Gioan Thánh Giá, nhờ sự đóng góp của những nghiên cứu hiện đại triết học về nhân vị. Nhất là, quyển sách ấy còn mang dấu ấn kinh nghiệm bản thân tác giả. Xem những “đêm tối” như là việc chịu đóng đinh Thập Giá, chị viết: “Cuộc đóng đinh Thập Giá này càng hoàn hảo, ta càng được kết hợp mật thiết với Đấng chịu đóng đinh Thập Giá, ta càng tham gia cách phong phú hơn vào đời sống Thiên Chúa” (KW I 32-33).

Nữ tu Thérèse Bénédicte không còn được an toàn tại Echt nữa; Dòng Cát Minh Pâquier ở Thụy Sĩ đã chấp thuận đón tiếp chị. Nhưng những việc thương lượng với các vị hữu trách Hiệp Hội kéo dài và ngày 2.8.1942, cảnh sát Gestapo bắt giữ người và chị ruột người là Rose, sau đó họ đưa cả hai vào trại Westerbork. Nữ tu Edith Stein đã bị giết bằng khí độc tại trại tập trung Auschwitz ngày 9.8 năm đó.

  1. Cha Marie- Eugène de l’Enfant Jésus (Henri- Grialou)

Henri Grialou quê ở Rouergue, sinh tại Gua ngày 2.12.1894 trong một gia đình đạo đức. Thân sinh qua đời khi em chưa đầy 10 tuổi – và nghèo khổ kéo đến. Ơn gọi linh mục của Henri bắt đầu ngay từ thuở ấu thơ. Là học sinh giỏi ở trung học, người thanh niên này vào đại chủng viện tại Rodez tháng 10.1911. Cũng vào thời ấy, cuộc gặp gỡ với Thánh Têrêsa H.Đ.G là một “tiếng sét ái tình quyết định”.

Sau khi chịu chức linh mục, Henri từ giã gia đình, ngày 24.2.1922, là ngày thứ nhất sau lễ mở tay, để vào tập viện Dòng Cát Minh ở Avion, nơi mà người trở thành cha Marie Eugène de l’Enfant Jésus. Cha có công nhiều trong việc liên kết các Đan Viện Cát Minh nữ, nhất là sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII, năm 1948, bổ nhiệm cha chức vụ kinh lược tất cả các Dòng Cát Minh ở Pháp. Bất chấp mọi trở ngại, ngày 16.5.1955, cha thành lập các Hiệp Hội Dòng Cát Minh nữ, góp phần lợi ích cho các Đan Viện, nhất là cho cuộc canh tân theo Công đồng. Cha Marie Eugène nói: “Sự tăng trưởng và phát triển của cuộc sống dưới thế này chỉ được thực hiện nhờ được liên lỷ thích nghi thôi”.

Là Bề Trên tu viện Petit- Castelet gần Tarascon, rồi Bề Trên ở Agen, cha Marie-Eugène khi vừa mới được bổ nhiệm làm Bề Trên ở Monte-Carlo, thì năm 1937, cha được bổ nhiệm làm cố vấn trung ương toàn Dòng, cha lưu lại Rome 18 năm. Sau khi cha Bề Trên Tổng Quyền qua đời, cha trở thành tổng đại diện của Dòng năm 1954. Năm sau, cha trở về Pháp và ba lần được bầu làm giám tỉnh Avignon- Aquitaine.

Nhưng việc quan trọng nhất của cha là sáng lập tu hội Notre-Dame de Vie. Năm 1929, khi cha thấy một nhóm các giáo sư đến với cha tại Petit- Castelet: là những tâm hồn chân thành sẵn sàng tận hiến dưới một hình thức chưa định dạng, khát khao hiểu biết Thiên Chúa cách sống động. Vì thế, cha phải về dạy tại Marseille, những lớp đầu tiên về nguyện ngắm, đó là nguồn gốc kiệt tác của cha: “Je veux voir Dieu” (Tôi muốn thấy Thiên Chúa). Năm 1932, với sự chúc lành của Đức Cha de Llobet, Tổng Giám Mục Avignon, nhóm này định cư tại Vénasque, nơi mà Đức Mẹ Sự Sống được tôn kính từ thế kỷ VII. Ngày 24.8.1937, tu hội được Sắc Lệnh của Tòa Thánh nhìn nhận là Huynh Đoàn đặc biệt của Dòng Ba Cát Minh. Với niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, cha Marie-Eugène theo đuổi sự nghiệp của mình, khiến cho 15 năm sau, tu hội được xác nhận cách vẻ vang. Năm 1947, khi Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố Hiến Chế “Provida Mater Ecclesia”, ban cho các tu hội đời được hiện hữu theo Giáo Luật. Vị sáng lập vui mừng: “Vâng, đó là điều tôi tìm kiếm”. Từ năm 1948, tu hội Notre-Dame de Vie được phê chuẩn trong số các tu hội đầu tiên. Ngày nay, ngoài nhánh nữ lan rộng trên tất cả các lục địa, tu hội còn có một nhánh linh mục và một nhánh nam nữa.

Năm 1966, sức lực của cha Marie-Eugène bắt đầu giảm sút và cuối năm ấy, bệnh hoạn làm người suy sụp. Hơn bao giờ hết, cha được Chúa Thánh Thần xâm chiếm và ý thức nỗi nghèo nàn của mình, cha nói: “Chúa Thánh Thần quở trách tôi, từ 30 năm nay”. Dù sức yếu, cha vẫn làm việc cho đến phút cuối. Ngày 27.3.1967, vị tu sĩ vĩ đại này đã bước vào Nhà Cha.

.V. Thần Khí và Sự Sống. Ba Ơn Gọi

Thời gian gần đây, chúng ta bị đánh động khi bàn về ơn gọi – trong Dòng Cát Minh cũng như trong các Hội Dòng – Hầu như người ta chỉ nghĩ đến ơn gọi tu trì, ơn gọi đặc biệt. Dường như người ta đã quên điều kiện hiện hữu của chính ơn gọi ấy: hai nền tảng thiết yếu của nó. Đó là hai ơn gọi khác cắm chặt trong Thánh Kinh: một ơn gọi được ban cho mọi người nói chung; và ơn gọi kia cho tất cả các Kitô hữu: Ơn gọi “tạo dựng” và ơn gọi Thánh Tẩy.

Giống như những vòng tròn đồng tâm, ba ơn gọi họp thành một tổng thể hữu cơ và bất khả phân ly, luôn được xét trong một viễn tượng Cát Minh. Không bàn riêng rẽ các ơn gọi này, các thánh Dòng Cát Minh đã biểu lộ trong cuộc sống cũng như trong các văn phẩm của họ, một ý thức sắc bén về ba bình diện này. Thánh Têrêsa đã nhắc đến nó trong một lời kinh:

Lạy Thiên Chúa uy nghi, độc nhất, Tốt Lành,

Con thuộc về Chúa, Đấng đã dựng nên con.

Thuộc về Chúa, Đấng đã cứu chuộc con,

Thuộc về Chúa, Đấng đã gọi con,

Chúa muốn con thế nào đây ? (PM 5)

Ngày thứ sáu của việc tạo dựng, Thiên Chúa đã cho con người hiện hữu. Theo lời thánh Tôma Aquin, đó là “ơn gọi đầu tiên” của con người. Nó là nền tảng cho ơn gọi Thánh Tẩy mà thánh Phaolô nói với chúng ta: “Anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4,4) là: Mặc lấy Đức Kitô, nhờ phép Rửa mà được tháp nhập vào Ngài, “đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô – Giêsu” (Rm 6,11); ơn gọi thứ ba, ơn gọi tu trì, chỉ là một sự triển nở ơn gọi Thánh Tẩy thôi.

  1. Ơn gọi tạo dựng

Thiên Chúa phán: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh và giống chúng ta” (St 1,26). Lời sáng tạo cũng là một ơn gọi cho con người Adam hiện hữu, con người này mang nơi mình tất cả vũ trụ và vượt lên trên vũ trụ, vì con người là nhân vị có trí khôn và ý chí, có thể đi vào tương quan tình yêu và đối thoại với Đấng tạo dựng nên mình. Xét riêng, ngoài tương quan với Thiên Chúa, con người vẫn là một bí ẩn rắc rối. Do đó, có một mối quan hệ cơ bản, “tự nhiên”, phát xuất những bổn phận chính yếu đối với con người.

. Chấp nhận và tranh đấu. Hoàn tất việc tạo thành

Ta có thể bối rối khi nhận thấy Thiên Chúa dựng nên thế giới và loài người như hiện nay. Thuở ban sơ, Ngài đã thiết lập tạo thành trong một trật tự hài hòa, trong đó mọi sự phải quy hướng về Ngài, trung tâm ban sự sống. “Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài đã làm ra thật tốt đẹp” (St 1,31). Nhưng tội lỗi của con người Adam, vốn là tội lỗi của toàn thể nhân loại qua không gian và thời gian, đã và đang cắt đứt trật tự của Thiên Chúa, gieo rắc đau khổ và phá hoại bởi thù ghét và độc tài. Vậy, thực tại của thế giới có hai chiều giằng co. Biên giới giữa lành và dữ xuyên qua nó, như vẫn đi ngang qua chính lòng chúng ta. Tuy nhiên, Thiên Chúa – Tạo Dựng vẫn hiện diện trong mọi sự dù chúng bị sự dữ làm cho “đổ vỡ”. Qua thực tại gây bối rối này, Thiên Chúa đặt cho chúng ta hai câu hỏi: “Con có chấp nhận Ta không ? Ta, là Sự Thiện, là Tình Yêu, bằng cách chấp nhận tạo thành của Ta, thực tế, dù nó bị tổn thương và dù nó gây thương tích cho con ? Con có chấp nhận tham gia vào sự nghiệp của Ta bằng cách phấn đấu đến nỗi hiến mạng sống mình vì một thế giới tốt đẹp hơn, trong đó sự dữ ngày càng bị công lý và tình thương chiến thắng, làm tỏ rõ sự hiện diện của Ta không ?” Hai câu hỏi này không tách rời nhau, được ngỏ với mỗi một người trong chúng ta.

Sự chấp nhận và phấn đấu – không phải là phản loạn nhưng là kiên trì tìm sự thiện và hoàn toàn xả thân – liên quan đến tất cả các bình diện của thực tế trong đó thánh ý của Thiên Chúa được diễn tả, như thánh Têrêsa Avila đã quảng diễn rất tài tình:

Lạy Chúa là sự khôn ngoan muôn thuở,

Xin ban cho con chết hoặc sống,

Xin ban cho con sức khoẻ hay bệnh tật,

Chiến tranh hoặc hòa bình.

Con sẽ thưa “Vâng” đối với mọi sự.

Xin ban cho con giàu sang hay nghèo khổ,

An ủi hoặc buồn phiền,

Bóng tối hay ánh sáng,

Vui hay buồn,

Con vẫn phó mình trọn vẹn cho Chúa. (PM 5)

Chấp nhận thực tại của thế giới, những biến cố của cuộc đời, mà vẫn chống lại sự dữ: chấp nhận và tôn trọng tha nhân trong tính đa dạng của họ và yêu thương họ đến nỗi tha thứ cho họ, chấp nhận với những tài năng cùng giới hạn của mình, tính di truyền và hoàn cảnh của mình, những ước muốn và yếu đuối của chúng ta, mà luôn luôn tìm cách thắng vượt chính mình: Hòa bình và sự hiệp nhất của thế giới bắt đầu nơi mỗi người chúng ta.

. Giới tính và khả năng sinh sản

“Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ” (St 1,27). Chấp nhận chính mình cũng có nghĩa là, đối với người đàn ông và đàn bà, dù bậc sống thế nào cũng chấp nhận và còn hơn nữa, đảm nhận giới tính của mình. Giới tính là một ân huệ nền tảng Thiên Chúa đã ban cho người nam và người nữ, một ân huệ năng động, đặt dấu ấn của Ngài trên con người chúng ta. Nó là khả năng yêu thương và khả năng sáng tạo. Theo lối nói của Olivier Clément, “tình yêu nơi chúng ta là chính sinh khí của Chúa Thánh Thần”. Nếu tình yêu này được hoàn tất bình thường trong sự kết hợp giới tính giữa đàn ông và đàn bà, giới tính cũng đánh dấu tất cả các tương quan khác của con người, và cả đến tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa nữa.

Có kết hôn hay không, vấn đề là sống với tất cả khả năng của nam tính hay nữ tính của mình, đúng theo hướng ta đã tự do lựa chọn cho đời mình. Nơi đây, đôi khi phải phát triển lâu dài và khó khăn đời sống tương quan của chúng ta; và những thất bại được sáng suốt đảm nhận có thể trở thành những “giai đoạn ánh sáng”. Để có thể gặp gỡ tha nhân – và Tha Ngã là Thiên Chúa – ta phải thực sự là chính mình hoặc trên con đường trở thành chính mình.

Thiên Chúa chúc lành cho họ và phán: “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1,28). Và đây là khía cạnh khác của giới tính: Khả năng sáng tạo; khả năng sinh sản. Sự kết hợp giữa người nam và người nữ kết thúc bình thường nơi con cái. Nhưng mọi tình yêu thực sự, thuộc bất cứ lãnh vực nào, trong hôn nhân hoặc độc thân, đều phong nhiêu cả. Mọi liên hệ liên bản vị chân chính đều có một khía cạnh sáng tạo. Nếu chúng ta đón nhận người kia như chính họ, nếu chúng ta lắng nghe họ, thì chúng ta góp phần xây dựng họ, làm cho họ trở thành con người thật của họ. Tư cách làm cha, làm mẹ thiêng liêng là một thực tại sâu xa được diễn tả trong những tương quan cụ thể hoặc trong tình liên đới vô hình và sự hiệp thông của mọi con người. Bởi nguồn gốc chung của chúng ta là Thiên Chúa – Đấng Tạo Hóa, Cha chúng ta trên trời – chúng ta hết thảy là anh em với nhau, ngay cả trên bình diện hoàn toàn “tự nhiên”. Vậy có những liên hệ thực sự là một tác động tương quan, thực sự giữa mọi thành phần của nhân loại.

. Trở thành và tăng trưởng. Trưởng thành nhân bản

Thiên Chúa phán bảo: “Hãy sinh sôi nẩy nở…” (St 1,28). Một đặc điểm khác của vũ trụ tạo thành phải được chấp nhận nữa là: luật trở thành và lớn lên. Con người – Adam ở trong một cuộc tiến hóa lâu dài, được gợi lên cách tượng trưng trong tình thuật về tạo dựng. Thiên Chúa không muốn chúng ta sinh ra là đã hoàn chỉnh rồi, nhưng muốn chúng ta cũng phải trải qua một sự phát triển bắt đầu từ lúc chúng ta được thụ thai để kết thúc lúc chúng ta qua đời, lúc chúng ta được “biến đổi” cách nhiệm mầu (1Cr 15,51). Sự trở thành này có những quy luật và những giai đoạn của nó mà ta phải công nhận và tôn trọng với tất cả những trách nhiệm kèm theo đó, đối với cá nhân và môi sinh của họ: tuổi thơ với nhu cầu bảo trợ và giáo dục, tuổi thiếu niên với việc tuần tự chinh phục và độc lập, hướng về tuổi trưởng thành và cuối cùng sự chấp nhận phải già đi và chết. Đã không được thể hiện theo một nhịp đều đặn, việc vượt qua vô số “ngưỡng cửa” của tăng trưởng lại thường được thể hiện qua những khủng hoảng ít nhiều dữ dội, những khó khăn thử thách phải đương đầu và đảm nhận, nhưng cũng qua kinh nghiệm tình thương và từ tâm nữa.

Mục đích của sự tiến triển này là trưởng thành nhân bản, tức là sự hoàn thành cá nhân chúng ta. Dù nghịch lý đến đâu, sự trưởng thành và hoàn thành này, trước hết không ở trong việc khẳng định nhưng là siêu thoát bản thân, không phải trong sự phát triển tất cả khả năng của chúng ta – điều này thật viễn vông – nhưng trong phục vụ. Tuy nhiên, để cho con người có thể từ bỏ chính mình, trước hết họ phải biết và tin rằng mình được Thiên Chúa và anh em tiếp đón và chấp nhận. Để có địa vị trong thế giới và xây dựng bản thân, để ít nhiều thành tựu đời mình, mỗi người cũng cần kẻ khác nữa. Nhất là trong hướng cởi mở và khích lệ mà sự liên đới có trách nhiệm của chúng ta phải được thể hiện đối với anh chị em chúng ta.

Trở thành cũng sẽ là tìm kiếm một sự hài hòa luôn luôn gia tăng giữa thân xác, linh hồn và tinh thần họp thành một tổng thể hữu cơ: ta không thể “cắt nó ra thành mảnh” mà không thất tín với quan niệm Thánh Kinh về con người. Ta không nên quên rằng hình ảnh của Thiên Chúa nơi chúng ta ghi dấu ấn của nó không những trên phần vô hình của con người, mà ngay cả trong “cái hữu hình”, trên thân xác con người nữa. Thân xác thánh thiện đến nỗi Ngôi Lời của Thiên Chúa đã mặc lấy một thân xác nơi Đức Maria. Chúng ta phải ngày càng ý thức hơn về thân xác của chúng ta và để cho Thần Khí của Thiên Chúa thấm nhập nó, vì thân xác anh em là “đền thờ của Chúa Thánh Thần” (1Cr 6,19). Cái nhìn tích cực này về thân xác không miễn cho ta việc khổ chế, phải giúp chúng ta làm chủ được nó. Thánh Jean Climaque, đã để lại cho chúng ta một bản văn thật tuyệt vời về điểm này: “Kẻ đã bắt chi thể của mình tùng phục linh hồn, người đó hoàn hảo. Ai đã thắng thân xác của mình ? Người đã đập vỡ con tim của mình. Ai đã đập vỡ con tim của mình ? Người đã từ bỏ chính mình. Vì làm sao nó không bị tan vỡ, kẻ đã chết đối với ý muốn của mình ?”.

Trưởng thành tình cảm cũng rất quan trọng, tức là quân bình giữa những ước muốn hồn nhiên với cách sắp xếp và chỉnh đốn chúng. Vì ta có thể sửa lại các tật xấu và điều chỉnh đam mê. Sự hài hòa trong các hành động bộc phát của chúng ta không bao giờ xong một lần dứt khoát đâu, nhưng phải liên lỷ điều chỉnh lại. Nó tương ứng với tự do nội tâm và như vậy là với sự siêu thoát của mỗi người.

Sự trưởng thành nhân bản cũng được biểu lộ trongkhả năng tiếp xúc với kẻ khác, với đời sống cộng đoàn. Đời sống cộng đoàn góp phần vào sự triển nở và tự do của con người mặc dù đòi hỏi nơi họ một sự thích nghi với nhóm và những sự từ bỏ vì ích lợi của nhóm. Nhóm chỉ tìm được sự hiệp nhất và viên mãn của mình bao lâu mỗi thành viên của nhóm chấp nhận tất cả các thành viên khác trong căn tính riêng và sự khác biệt của họ. Điều này chỉ có thể được khi mỗi người ngày càng ra sức tập trung sức sống của mình mà tìm sự thống nhất bản thân. Sự thống nhất cá nhân này vốn là chóp đỉnh của trưởng thành nhân bản và làm vững vàng cho sự hiệp nhất sâu xa của tất cả nhân loại.

Tuy nhiên, ta không thể chối cãi rằng, bên trong nhóm, luôn luôn còn tồn tại những căng thẳng. Nhưng những căng thẳng này thiết yếu cho bước tiến hướng về trưởng thành nhân bản bởi vì chúng mang tính sáng tạo, với điều kiện là được liên lỷ đảm nhận và tái lập quân bình. Những căng thẳng này cũng có thể giúp dần dần ý thức về sự thật cá nhân của mình, về cái hay cũng như cái dở. Khám phá giới hạn, tội lỗi của mình, đồng thời cũng khám phá được ơn Chúa và tác động của ơn Chúa nữa. “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,12).

. Lao động

Lao động cũng thuộc về ơn gọi tạo dựng. “Đức Chúa là Thiên Chúa đã đặt con người vào vườn Eden, để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2,15). Và khi phạm tội: “Ngươi sẽ phải cực nhọc mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra… Ngươi sẽ đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn” (St 3,17; 19). Vậy luật cung về lao động này (PC 13) liên quan đến mọi người. Luật Dòng Cát Minh nhấn mạnh trên điều đó với những bản văn mạnh mẽ của thánh Phaolô (RC 20). Thánh Têrêsa Avila đưa con cái người vào cùng một con đường ấy bằng cách khích lệ họ kiếm sống bằng những việc thủ công đơn giản để làm cho tâm trí được thong dong mà cầu nguyện (CT 9). Hiến Pháp  Dòng nam Cát Minh cũng nhấn mạnh trên “quy luật và nghĩa vụ lao động, tông đồ, trí thức và tay chân”, để “mưu sinh nhờ một việc làm nghiêm túc nhưng không lo lắng… và hoàn chỉnh công trình tạo dựng bằng cách biến đổi sự vật và xã hội” (CC 28). Nhờ mưu sinh như vậy, tu sĩ và nữ đan sĩ hiệp thông sống động với anh chị em mình trên toàn thế giới và tìm được dịp sống cụ thể lời khấn khó nghèo của mình. Đàng khác, luật dòng căn dặn “lao động trong thinh lặng” (RC 20). Vậy “tất cả công việc của chúng ta phải thích hợp với thinh lặng” (DC 70), để cho các Đan Viện và tu viện của chúng ta thực sự là những ngôi nhà của tĩnh lặng.

Những người chiêm niệm bao giờ cũng yêu quý lao động. Thánh Têrêsa Avila khẳng định: “Chúa đã ban cho tôi một ơn cao trọng ở điều này: tôi ưa thích là người đầu tiên bắt tay vào việc”(LF 19). Thánh Gioan Thánh Giá tích cực tham gia việc xây cất Đan Viện Grenade và tu viện Ségovie. Thánh Têrêsa Lisieux một hôm trách một tập sinh uể oải như sau: “Người ta có làm việc như thế khi phải nuôi con thơ không ?”, nhắc lại hiệu năng tông đồ của hình thức xả thân này là lao động.

Luật Dòng cũng nhấn mạnh trên giá trị thiêng liêng của lao động: “Sao cho ma quỷ nhìn thấy anh em luôn luôn bận việc…”, vì nhàn rỗi, sinh ra lắm mơ mộng, là con đường kẻ cám dỗ ưa thích sử dụng để lẻn vào linh hồn. Vậy lao động là một phương thế rất tốt để chống lại cám dỗ. Trong Dòng Cát Minh, động cơ chính yếu của mọi công việc là đức vâng lời. Thánh Gioan Thánh Giá khẳng định mạnh mẽ điều ấy: “Hoạt động của một tu sĩ không thuộc về người ấy, nhưng thuộc về đức vâng phục; và nếu họ không đưa người điều ấy về sự hướng dẫn của đức vâng phục, người ta sẽ đòi chúng, xem chúng như đã mất rồi” (PRE). Nhưng đây là một sự vâng phục có trách nhiệm chứ không phải thừa hành lệnh đã nhận được. Mỗi người được tự do có sáng kiến và sáng tạo mà mình có khả năng đảm nhận. Tu sĩ có bổn phận làm việc chuyên cần, nghiêm túc, như một người làm công. Nhưng, ngày nay việc mưu sinh có thể trở nên xâm lấn, đâu đâu cũng cố kiếm sống, hơn bao giờ hết, phải thận trọng tránh mọi lo lắng quá đáng. Như thánh Têrêsa Avila nói: “Chị em cung cấp cho nhu cầu của mình là phải lẽ, nhưng tâm hồn phải bình an” (CP 34). Với kỷ luật buộc phải theo một công việc liên tục và đều đặn, đúng giờ giấc, hãm dẹp sự dao động là một khổ chế rất tốt, thuận lợi cho việc từ bỏ mình với những kích thích không được kiểm soát, cũng như sự dửng dưng đối với điều vừa ý hoặc bất mãn mà mình cảm nhận. Lúc đó, lao động cũng trở thành một phương tiện mà ngoài nó ra, không có tiến triển thiêng liêng.

  1. Ơn gọi Thánh Tẩy

Ơn gọi này và những đòi hỏi của nó cũng được thánh Phaolô nhắc đến rõ ràng trong thư gởi giáo đoàn Epheso: “Hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em… Anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng… Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta lớn lên về mọi phương diện, vươn lên tới Đức Kitô vì Người là Đầu” (Ep 4,14-15). Ơn gọi Thánh Tẩy mời gọi chúng ta tham gia vào mầu nhiệm Đức Kitô hướng về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và khai mở cho chúng ta mầu nhiệm này. Phép Thánh Tẩy, “cuộc tái sinh bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5), tháp nhập chúng ta vào Đức Kitô chịu đóng đinh Thập Giá và Phục Sinh và cho chúng ta thông phần vào đời sống của Ngài. “Chịu phép Thánh tẩy tức là dấn thân cho Thiên Chúa với một lương tâm ngay lành, và như vậy, được tham gia vào cuộc Phục Sinh của Đức Kitô” (Pr 3, 21- 22).

Là Kitô hữu, tức là ở “trong Đức Kitô” một cách bí nhiệm, đã “mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3,27), tức là thấm nhiễm Ngài trong tất cả hữu thể chúng ta. Bởi phép Thánh tẩy, chúng ta đã trở thành “chính Đức Kitô”, theo từ ngữ táo bạo của thánh Augustin khi đặt những lời này trong miệng Đức Kitô: “Ta thánh hóa chúng như Ta, như chính bản thân Ta, bởi vì nơi Ta, chúng cũng là Ta”. Sự tiến triển hướng về cuộc biến đổi tình yêu, trong đó Đức Kitô trong tôi trở nên tôi hơn chính bản thân tôi nữa, được thể hiện dưới tác động của Thần Khí và chính Đức Kitô là Con Đường sống động của chúng ta (Ga 14,6). Có vẻ đầy nghịch lý, thậm chí mâu thuẫn nữa, “Con Đường” này vượt quá trí khôn lý sự của chúng ta và bẻ gãy những suy luận của chúng ta, vì mỗi lời nói, mỗi hành động của Đức Giêsu –Kitô đều hướng về cõi vô biên. Chính Tin Mừng vạch lại cho chúng ta con đường “theo gót Đức Kitô” (RC p. 19), và mặc khải cho chúng ta những thái độ cơ bản của người thụ tẩy.

. “Con cái Thiên Chúa” (Ga 1,12)

Nếu trong Cựu Ước, Giavê đã được xem như Cha của Israel, đây chưa phải là một tình phụ tử phổ quát. Chính Chúa Giêsu, Con Một (Ga 3,13) yêu dấu (Mc 1,11), mặc khải cho chúng ta Chúa Cha đầy tình thương và lân tuất, Cha hết thảy mọi người, và “những ai đón nhận Ngôi Lời là ánh sáng thật… thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,9-12), tức là biến đổi thành Thiên Chúa, như thánh Gioan Thánh Giá khẳng định (MC II,3). Có cùng một Cha, tất cả mọi người đều là anh em với nhau. Và Đức Giêsu, Trưởng Tử, chia sẻ với họ di sản của Ngài, sâu xa đến nỗi Thần Khí linh hứng cho họ gọi như Đức Kitô gọi Thiên Chúa bằng tên âu yếm là “Abba” (Rm 8,15), tức là “Cha”  – và như trẻ nhỏ (Mt 19,14). Chúng ta phải đón nhận Nước Trời cách đơn sơ, vì Thiên Chúa mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn (Lc 10,21). Thánh Têrêsa Lisieux nhắc lại và giải thích cho thời đại chúng ta giáo huấn này của Tin Mừng: “Giữ mình bé nhỏ, tức là nhìn nhận sự hư vô của mình, chờ đợi mọi sự nơi Thiên Chúa… Không lo lắng về điều gì cả… Tức là không gán cho mình những nhân đức mình thực hành, không ngã lòng về lỗi lầm của mình …” (DE 6,8.8). Vấn đề là, qua mọi sự, phó mình cho tình yêu vô biên của Cha trên trời.

. Được Thần Khí hướng dẫn (Rm 8,14)

Được thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu để cho Ngài hướng dẫn suốt cả cuộc đời trần thế của mình. Cũng vậy, người thụ tẩy phải liên lỷ lắng nghe Thần Khí hiện diện trong lòng mình: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25) để có thể được biến đổi theo hình ảnh Đức Kitô. Chính sự trung thành với Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta trở nên môn đệ thực sự, bước theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh Thập Giá – Phục Sinh với quyết tâm mà thánh Têrêsa Avila đã cố ý nhấn mạnh: “Để đi vào con đường nguyện ngắm, điều thực sự quan trọng bậc nhất là có một quyết tâm tuyệt đối, không gì lay chuyển được, không dừng lại cho đến khi đạt đến nguồn mạch” (CP XXI).

. “Hãy học với tôi” (Mt 11,29)

“… vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng”. Thái độ khiêm tốn hiền hậu này là điều duy nhất Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta bắt chước nơi Ngài. Tất cả đời sống thiêng liêng chân chính đều đặt nền tảng trên đức khiêm nhượng. Theo thánh Têrêsa Avila, khiêm nhượng là “bước đi trong sự thật” (LD 6,X). Và đối với thánh Têrêsa Lisieux, sự thánh thiện không là gì khác hơn, một “thái độ tâm hồn làm cho ta nên khiêm tốn, bé nhỏ trong vòng tay Thiên Chúa, ý thức về nỗi yếu đuối của chúng ta và tin tưởng táo bạo vào lòng nhân từ của Thiên Chúa là Cha” (NV 3, 8.5). Vấn đề không phải là dùng ý chí mà chinh phục bất cứ điều gì, vì “nhân đức là kết hợp ý thức nỗi yếu hèn của con người với quyền năng Thiên Chúa”, như thánh hiển tu Maxime nói: “Kẻ thực sự khiêm nhượng tìm cách hướng về Thiên Chúa chứ không phải về bản thân, không để ý và quên mình đi”.

. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy (Ga 15,9)

Trong giáo huấn của Chúa Giêsu, chính tình yêu chiếm vị trí trung tâm. Hai giới răn đã được ban trong Cựu Ước: “Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (Đnl 6,5), và ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã nhắc lại hai giới răn này (Mc 12,30-31), đưa chúng đạt đến những đỉnh cao mới mẻ. Không bao giờ Ngài tách rời hai tình yêu này. Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước, đến nỗi ban cho chúng ta Con Một của Ngài, Chiên Thiên Chúa chịu sát tế vì tội lỗi chúng ta (1 Ga 4,10). Tình yêu này vượt quá mọi giới hạn, đòi hỏi chúng ta đáp trả; nhìn nhận, tin và đón nhận tình yêu ấy. Vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường ấy nên chúng ta phải yêu thương anh em mình. Yêu thương họ như chính mình. Điều này ám chỉ một tình thương lành mạnh đối với bản thân, không dính líu gì với tính ích kỷ cả, nhưng là biết đơn sơ chấp nhận những giới hạn, yếu đuối, thành công và niềm vui của mình. Nhưng trước khi từ giã các tông đồ, Chúa Giêsu còn tỏ ra đòi hỏi hơn nữa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Yêu thương cả địch thù nữa, đi đến cùng sự tha thứ, không bao giờ thỏa hiệp với thái độ giận ghét và báo thù có thể nổi lên nơi chúng ta, hoa quả cay đắng của bản năng chưa được Phúc Âm hóa. Yêu thương anh em đến nỗi hiến mạng sống mình. Và điều tuyệt diệu nhất của tình yêu là Đức Kitô sẽ quy tụ tất cả chúng ta nơi Ngài để lôi cuốn chúng ta đến nơi thẳm sâu của đời sống Ba Ngôi: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ hoàn toàn nên một” (Ga 17,23)

. “Phúc cho anh em…” (Mt 5,3-12)

Bài hoan ca mà chúng ta gọi là “Các mối phúc thật” xem ra có thể gây lúng túng vì quá nghịch lý. Tuy nhiên, đó là Hiến Chương cơ bản của Kitô giáo. Chúa Giêsu đã nói trước khi chịu nạn: “Để niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15,11). Nhưng niềm vui nào ?

Niềm vui của sự nghèo khó không nắm giữ của cải vật chất, hoặc sự hiểu biết, cả đến những hồng ân của Thiên Chúa nữa, sự nghèo khó siêu thoát đối với mọi sự nhất là đối với bản thân, làm cho chúng ta được tự do và trống rỗng để hoàn toàn quan tâm đến Thiên Chúa và tha nhân.

Niềm vui của sự hiền lành từ chối mọi bạo lực và không bao giờ lấy oán trả oán. Sự hiền lành này là hoa quả của sự từ bỏ chính mình và sức mạnh của lòng mến.

Niềm vui của những kẻ sầu khổ bởi vì lòng họ tràn ngập hối hận, biết ơn trước những công trình kỳ diệu của Thiên Chúa hoặc thông cảm đối với nỗi đau của tha nhân. niềm vui của những kẻ đau đớn trong thân xác hoặc tâm hồn, hòa nước mắt của mình với nước mắt của Đức Kitô.

Niềm vui của những kẻ đói khát sự công chính, tức là sự trong trắng và thánh thiện, tìm kiếm Nước Trời với tất cả niềm cậy trông của họ. Niềm vui của những kẻ không ngừng đấu tranh cho quyền lợi người nghèo.

Niềm vui của những kẻ biết thương xót, những kẻ không phán đoán, thứ tha mọi xúc phạm, mọi sự dữ, và âu yếm cúi mình trên thương tích của những kẻ gây tổn thương cho mình.

Niềm vui của những kẻ có quả tim trong sạch, một quả tim đơn sơ, chân thật trở nên tình yêu bởi vì đã không quay nhìn mình; một quả tim trong sạch chiếu tỏa Đức Kitô  đã xâm chiếm nó trọn vẹn, để cho ánh sáng của Ngài tỏa lan trên loài người.

Niềm vui của những kẻ đã thiết lập bình an nơi mình và tìm cách truyền đạt cho người khác. Được hòa giải với chính mình, họ trở nên người giải hòa, luôn luôn lắng nghe Thần Khí, Đấng không hề dung thứ một sự chia rẽ nào.

Niềm vui của những kẻ bị bách hại vì công lý, vì trung thành với Đức Kitô, họ chấp nhận trở nên dấu chỉ sự chống đối và là đối tượng của sự chê bai bởi vì họ tìm cách hủy diệt hận thù vì yêu thương, thắng sự dữ bằng sự thiện, mang Tin Mừng đến cho người nghèo. Phúc cho họ vì Thiên Chúa nhớ đến họ trong vương quốc của Ngài.

. “Anh em đừng lo lắng” (Mt 5,25-34)

Thiên Chúa là Cha chúng ta biết chúng ta cần gì và Ngài yêu thương chúng ta. Tuy nhiên, trạng thái bất an của môi trường thường gây nên nơi chúng ta lo lắng về ngày mai: những khó khăn vật chất và thiêng liêng. Thiếu ơn gọi – và này đây, chúng ta bị xâu xé bởi thứ “vô thần về lo lắng”, như một nhà tu đức Thụy Sĩ nói rất đúng. Tuy nhiên, lòng mến phải xua đi mọi lo sợ và cho ta một niềm tin tưởng bất khuất vào Đấng có thể làm mọi sự. Và Chúa Giêsu nhắc lại với chúng ta: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin” (Mt 8,26). Vì, dưới bức màn của tối tăm cũng như dưới bức màn của ánh sáng, chính Ngài đến với chúng ta, để thử thách hoặc làm cho đức tin của chúng ta thêm vững mạnh.

. “Phải từ bỏ mình và vác Thập Giá mình …” (Mc 8,34)

Chúa Giêsu đặt hai điều kiện này cho kẻ muốn theo Ngài. Từ bỏ chính mình nghĩa là gì ? Nếu không phải là mất mạng sống mình để tìm lại được nó, và tức là yêu thương. Thánh Têrêsa H.Đ.G. đã nói với chúng ta điều này: “Yêu là cho hết, và cho cả chính mình”. Cho chính mình, không phải bằng cách soi gương mà mỗi người trong chúng ta đều mang nơi thâm tâm, nhưng cách đơn sơ, không quay nhìn mình. Lúc đó, Thiên Chúa, một ngày nào đó, có thể đập vỡ chiếc gương ấy, để chúng ta quên mình đi. Từ bỏ chính mình cũng là dần dần học biết tự chủ, nhất là Chúa Thánh Thần làm điều này nơi chúng ta.

Vác Thập Giá, tức là mến yêu tuân phục ý Chúa, như được diễn tả qua những biến cố, những khó khăn và đau khổ trong đời sống, tất cả những bóng tối này được dự định cho con đường của chúng ta. Ý nghĩa sâu xa của những bóng tối này là chúng ta dần dần cởi mở đối với ánh sáng của Thiên Chúa vượt lên trên mọi sự hiểu biết. Được chấp nhận, Thập Giá này luôn mang tính cứu độ, tham dự vào cuộc tử nạn của Đức Kitô.

. Chết và Phục Sinh với Đức Kitô

“Khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô – Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người” (Rm 6,3). Cùng được mai táng với Người, chúng ta cùng được Phục Sinh với Người, để Đức Kitô trở thành sự sống của chúng ta, từ nay cùng với Ngài ẩn giấu nơi Thiên Chúa (Cl 3,3). Như vậy, nhờ phép Thánh Tẩy, mầu nhiệm mà đối với bản thân chúng ta, sẽ tỏ bày tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa. Và cuộc Phục Sinh không phải cho ngày mai, nhưng cho hôm nay, bao lâu chúng ta chấp nhận bổ túc trong thân xác chúng ta những gì còn thiếu cho những thử thách của Đấng Cứu Thế. Vì tình yêu hải hà của Thiên Chúa đối với chúng ta, Ngài đã cho chúng ta ở trên trời cùng với Đức Kitô- Giêsu rồi, vì chúng ta được niêm ấn Thánh Linh, để ca tụng vinh quang Thiên Chúa.

  1. Ơn gọi tu trì và ơn gọi Cát Minh

A/ Nền tảng của mọi đời tu

Ơn gọi tu trì tháp nhập vào ơn kêu gọi mọi người nên thánh. “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Văn mạch lời này của Chúa Giêsu chứng tỏ đặc biệt đây là sự hoàn hảo của lòng mến. Kính mến Thiên Chúa, yêu thương mọi người, bạn lẫn thù, theo cách chính Thiên Chúa yêu chúng ta. Vậy con người phải dần dần được biến đổi theo hình ảnh Đức Kitô, vì vấn đề không phải là trở thành “một sự hoàn hảo”, nhưng là trở nên giống Chúa. Con đường sẽ là con đường các nhân đức đối thần: Phương tiện duy nhất để “đụng đến” Thiên Chúa trong chính thực tại của Ngài; các nhân đức này có nhiệm vụ “tách rời những gì linh hồn không phải là Ngài” (NO II 22). Với lời lẽ của thánh Phaolô, luật Dòng Cát Minh khuyên nên mặc lấy các nhân đức ấy như một áo giáp để chiến đấu thiêng liêng: Mặc lấy áo giáp của sự công chính để thấm nhuần lòng mến Chúa yêu người, trong mọi sự, lấy khiên thuẫn đức tin để đẩy lui những sự tấn công của ma quỷ và đội mũ chiến cậy trông, để chỉ chờ đợi ơn cứu độ nơi Đấng Cứu Thế mà thôi.

. Một lời mời gọi cá vị

“Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn” (Mc 3,13). “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15,16). Ở khởi điểm một cuộc dấn thân vào đời tu, đều có một lời mời gọi nhưng không của Chúa; dù lời mời gọi này đến trong một ánh sáng chói chan đột ngột hoặc ở cuối một cuộc chín muồi chậm rãi, nó vẫn là một xác tín nội tâm mạnh mẽ và sâu sắc. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của con người và để họ quyết định theo hay không. Lời đáp trả của họ phải là một sự tự do lựa chọn và tiếng “Amen” của họ phải được nói lên trong Đức Kitô – Giêsu. Nơi Ngài, chỉ “có” mà thôi (2Cr 1,20). Ơn gọi vào Dòng Cát Minh được đánh dấu bởi ước muốn tuyệt đối trong hy sinh và từ bỏ – theo nghĩa này “Tất cả và không gì cả” mà Thánh Gioan Thánh Giá nói đến – và bởi ưa thích cầu nguyện nội tâm và khát vọng tông đồ phổ quát, đặt cơ sở trên sự hiệp thông của mọi người trong Nhiệm Thể Đức Kitô. Cũng cần một số đức tính nhân bản nữa, nhất là sức khoẻ, lương tri, trí thông minh và lòng ngay thẳng. Nhưng ý thức rằng mình được gọi không đủ. Ơn gọi này còn phải được Dòng hoặc tu hội liên hệ xác nhận. vậy là phải có “tiếng gọi” của Giáo Hội nữa.

. Thánh hiến bước theo Đức Kitô

Lời mời gọi vào đời tu bao gồm một sự “dành riêng” cho Thiên Chúa, một cuộc thánh hiến đặc biệt diễn tả cuộc thánh hiến Thánh Tẩy với một sự sung mãn gia tăng mà Chúa Giêsu đã nói đến: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ… Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,17-19). Cuộc thánh hiến lôi cuốn tất cả hữu thể, tất cả hành động của chúng ta và chuẩn bị để chúng ta được kết hợp với Thiên Chúa. Và kết hợp chúng ta cách đặc biệt hơn với mầu nhiệm Giáo Hội, vì nó là “vượt qua” ngày càng sâu xa trong Đức Kitô toàn diện. Từ khởi thủy của Giáo Hội, đã có những người nam, người nữ đã muốn, nhờ thực hành những lời khuyên Phúc Âm mà thong dong hơn để bước theo Đức Kitô khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục đến chết, và bắt chước Ngài cách trung thành hơn. (PC 1). Đúng là những lời khuyên này liên quan đến mọi Kitô hữu. Nhưng tu sĩ cam kết thực thi những lời khuyên ấy cách tuyệt đối hơn bằng cách tự buộc mình qua các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Vấn đề là nhìn nhận trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh, mọi con người, một khả năng gặp gỡ Đức Kitô và trong Đức Kitô, gặp được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cuộc dấn thân này rất táo bạo vì, vượt lên trên mọi khả năng của con người chúng ta, cuộc dấn thân này lại liên quan đến tất cả đời sống. Ta chỉ có thể đảm nhận việc dấn thân này trong một niềm tin tưởng hoàn toàn vào Đấng cùng dấn thân với chúng ta và đối với Ngài “không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).

. Nhân đức đối thần và lời khấn

Thánh Gioan Thánh Giá đã thiết lập trong “Lên núi Cát Minh”, một tương quan sâu xa thực sự giữa các nhân đức đối thần và các lời khuyên Phúc Âm, liên hệ với việc thanh luyện các quan năng của tâm hồn; ở đời này, linh hồn chỉ “kết hợp với Thiên Chúa bằng đức tin theo lý trí; bởi đức cậy theo trí nhớ; bởi đức ái theo ý chí” (MC II 6). Chính theo ánh sáng được vị tiến sĩ Dòng Cát Minh đề nghị, mà chúng ta sẽ nghiên cứu các lời khuyên Phúc Âm, tuy không vì thế mà bỏ qua những đòi hỏi cụ thể và hiện tại của chúng, thể theo các định hướng của Công đồng Vatican II.

. Tình yêu và khiết tịnh

“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8). Chúa Cha hoàn toàn là Tình Yêu; Chúa Con hoàn toàn là Yêu Thương; Chúa Thánh Thần hoàn toàn là Yêu Thương. Và nơi mỗi Ngôi Vị, tình yêu chiếu tỏa cách đặc biệt: Nơi Chúa Cha, là sáng tạo và phụ tử; nơi Chúa Con thì hiếu thảo và mang tính hôn phối; nơi Chúa Thánh Thần thì có tính cách “hiện diện” và thánh hóa. Và đồng thời tất cả Ba Ngôi đều là Cha (Thánh Tôma), tất cả Ba Ngôi đều là Hôn Phu (Hs 2), tất cả Ba Ngôi đều Hiện Diện (Ga 14,23). Chính bên trong mầu nhiệm tình yêu bao là này mà ta thấy vị trí của đức khiết tịnh “vì Nước Trời” (Mt 19,12), gợi lên Tiệc Cưới của Giáo Hội với Hôn Phu độc nhất, Đức Kitô (2Cr 11,2). Một mục sư Tin Lành trẻ tuổi đã giải thích đời sống độc thân tự nguyện của mình khi nói: “Khi người ta đã gặp Đức Kitô “cách nào đó”, người ta không thể kết hôn được nữa”. Cuộc gặp gỡ này thuộc diện “hôn phối”, vì qua nó, mọi khả năng yêu thương của người nam hoặc người nữ quay về Đức Kitô, tập trung nơi Ngài. Như thể Thiên Chúa “chạm đến” con người nơi sâu thẳm nhất để thức tỉnh nơi họ “tình yêu đầy khắc khoải” này (PJ Nuit), sẽ dần dần kéo họ ra khỏi chính mình và mọi sự để phó nộp cho Người Yêu, tùng phục ý muốn của Ngài trong cụ thể của cuộc sống, như thánh Têrêsa Lisieux đã hiểu rất rõ: “Lạy Chúa yêu dấu của con, con không có cách nào chứng tỏ tình yêu của con… ngoài việc không bỏ qua một hy sinh, một ánh mắt, một lời nói nào, lợi dụng tất cả những điều nhỏ nhặt và làm những việc ấy vì lòng mến” (MA B 232). Qua sự hiện diện và vắng mặt của Thiên Chúa, bóng tối và ánh sáng, vui buồn, sự buồn tẻ của những “đường hầm không nóng không lạnh” đó (LT 110), ta phải bước đi cho đến khi cuộc biến đổi hoàn tất, khi linh hồn “nên giống Thiên Chúa, bởi vì không còn chút gì nơi họ ở ngoài ý Chúa” (MC II 5).

Trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người, mọi sáng kiến đều thuộc về Chúa cả. Nếu con người cởi mở đối với tiếng gọi nơi sâu thẳm, lời đáp trả của họ sẽ là đón nhận, ưng thuận và hiến dâng. Vậy thái độ của họ trước mặt Thiên Chúa có tính cách “nữ tính”. Điều này đúng với người nam cũng như người nữ. Tương quan tình yêu với Thiên Chúa vượt quá giới tính, nơi mà tất cả hữu thể con người được thống nhất, nơi mà không còn chuyện “phân biệt đàn ông hay đàn bà”, vì tất cả “chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,28), vì tương quan ấy kéo theo tất cả tình cảm sâu xa vốn là hiệp thông với mọi người.

“Chỉ đặt con tim mình nơi Thiên Chúa thôi” (CS 1,2) không làm cho tu sĩ xa lạ với anh em đồng loại. Làm sao yêu mến Đức Kitô thực sự, nếu ta không yêu mến Ngài toàn diện với tất cả các chi thể của Ngài ? Không thể nào chia cắt tình yêu, nếu nó chân chính. Khiết tịnh thánh hiến là dấn thân vào một tình yêu phổ quát, yêu thương hết mọi người, nó giúp chúng ta đạt đến sự “tự do của một con tim không chia sẻ” (CC 18). Vậy con tim không chia sẻ đó là gì ? Thế nào là “phân chia” có nguy cơ cản trở tự do của chúng ta ? Đây không thể là thu hẹp lãnh vực yêu thương của chúng ta vì nó không giới hạn, “chia sẻ con tim” với hết thảy mọi người, với tất cả thế giới. Vấn đề ở đây là phẩm chất của tình yêu. Cái “phân chia” con tim của chúng ta, đó là tính ích kỷ của chúng ta tìm cách thu tóm mọi sự về cho mình, đó là những đam mê của chúng ta, được các giáo phụ đồng hóa với “ngẫu tượng”, mà Cựu Ước thường nói đến khi bàn về tình yêu, những “ngẫu tượng” mà Israel là người được yêu đã gieo mình vào trụy lạc. Những tình cảm vô độ hạn chế khả năng yêu thương của chúng ta, và ngăn cản nó hoàn toàn hướng về Thiên Chúa và mọi người. Đức khiết tịnh thánh hiến đòi hỏi sự từ bỏ, không những hôn nhân, mà còn mọi tình yêu say đắm nữa, những thứ “yêu riêng” mà thánh Têrêsa Avila có lý để đả kích (CP IV). Tập trung tình cảm vào “một người” khác ngăn cản chúng ta “lưu lại” nơi Thiên Chúa và cởi mở đối với mọi người.

Sự từ bỏ, đã không hủy hoại con người, lại còn góp phần xây dựng nhân vị, dù cho việc hy sinh bao hàm đau khổ. Vấn đề là đón nhận trọn vẹn mọi anh em đến với chúng ta và cũng biết vô số lần nói không với chính mình (Hồng Y Hume). Con tim, tình cảm, giác quan, tất cả nhân tính của chúng ta còn đó, rất sống động, nhưng Đấng khác, không phải chúng ta thay hình đổi dạng những thứ đó (R. Schutz). Đời sống độc thân không làm cho chúng ta cằn cỗi, mà phải làm cho chúng ta trở nên hăng say, hồn nhiên, từ tâm và đầy tình người hơn. Chúng ta đừng sợ tình cảm của mình, đừng tìm cách làm ngơ đi, lại càng không nên đè nén hoặc dập tắt, nhưng ta hãy giữ một sự chừng mực nào đó và sự tự chủ, cũng như một sự sáng suốt lành mạnh, đối với chính mình và đối với kẻ khác. Một sự sáng suốt không xét đoán chẳng bao giờ ngược với lòng mến: vấn đề không phải là yêu thích những ảo ảnh được lý tưởng hóa, nhưng là những con người thật, với sự cao cả và yếu đuối của họ.

Để trung thành với đức khiết tịnh thánh hiến, trước hết, chúng ta phải ý thức về sự mỏng dòn của mình, đừng cậy vào sức mình, cũng đừng khinh chê những phương tiện tự nhiên có thể bảo vệ sức khỏe thể lý, tâm lý và thiêng liêng của chúng ta. Và nhất là, như thánh Gioan Thánh Giá nói: “Trong khốn khó, hãy tin tưởng nhanh chóng chạy đến với Thiên Chúa, và bạn sẽ được khích lệ, soi sáng và dạy dỗ” (Châm ngôn 86). Một đời sống cầu nguyện mãnh liệt và cá vị sẽ giúp nhiều để chỉnh đốn tình yêu nơi chúng ta, khi ta nhìn lên Thiên Chúa sẽ cho ta thấy những gì không thích hợp với sự dấn thân của chúng ta. Đàng khác, một đời sống huynh đệ thân tình và chân thật cũng giúp nhiều để củng cố niềm trung tín của chúng ta. Thánh Têrêsa Avila nhấn mạnh điều này: “Trong Đan Viện này, tất cả phải là bạn hữu của nhau, tất cả phải yêu thương nhau, tất cả phải quý mến nhau, tất cả phải giúp đỡ lẫn nhau” (CP IV). “Xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy, anh em được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep 3,17-19)

. Cậy trông và khó nghèo

“Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”(Lc 14,33). Theo nghĩa thiêng liêng: lời này của Chúa Giêsu nói với tất cả các Kitô hữu. Cũng thế,  những gì được nói sau đây về sự khó nghèo của những người tận hiến, tuy vẫn tôn trọng những sự khác biệt cần thiết.

Bước theo Đức Kitô, “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho chúng ta nên giàu có” (2Cr 8,9), người tu sĩ tự do đảm nhận sự khó nghèo. Muốn được Đức Kitô thì phải từ bỏ tất cả những gì khác. Vì yêu mến Thầy mình, người môn đệ sẽ phải “ước muốn trơ trụi, nghèo khó, thiếu thốn mọi sự trên đời” (MC I 13), và tìm cách sống “cởi bỏ những sự vật bên ngoài, không sở hữu những của cải bên trong, không làm chủ những điều thiêng liêng” (Châm ngôn 145). Vấn đề ở đây, nhất là siêu thoát nội tâm, tự do đối với mọi người và mọi sự chứ không phải loại bỏ hoặc khinh chê. Người ta không khinh dể các công trình của Thiên Chúa. Vấn đề là vượt lên trên các thọ tạo, để qua chúng và trên chúng, gặp được Đấng “mặc cho chúng vẻ đẹp nhờ ánh phản chiếu của Tôn Nhan Ngài” (PJ II 5). Khó nghèo không phải vì chính nó, nhưng để được Chúa xâm chiếm: chính để đi đến với Ngài mà “linh hồn phải thoát khỏi những gì không phải là Thiên Chúa” (MC II 8). Đó là ý nghĩa sâu xa học thuyết của Thánh Gioan Thánh Giá, học thuyết về nada – nada – nada, hư vô, chỉ mình nó dẫn đến cái Tất Cả, đến chính Thiên Chúa, nơi Ngài ta được tự do sở hữu mọi sự. (Châm ngôn 42)

Ta hãy tiến sâu hơn vào ý nghĩa của đòi hỏi cởi bỏ này: “Mọi sự sở hữu đều ngược với niềm cậy trông, liên quan đến những gì mình không có” (MC II 15), thánh Gioan Thánh Giá khẳng định vậy. Những gì bạn nắm giữ trở thành một ràng buộc và một sức nặng thắng hãm và ngăn chặn bước tiến của bạn hướng về Đức Kitô, vì “một con chim bị cột bởi một sợi chỉ nhỏ hoặc một sợi dây thừng, đều không thể tung bay trước khi cắt đứt được sự ràng buộc ấy” (Châm ngôn 123), chỉ kẻ khó nghèo và thong dong mới nhẹ nhàng bay đến với Đức Kitô, dốc toàn sức bình sinh theo “đà của niềm cậy trông Thiên Đàng, hy vọng bao nhiêu thì được bấy nhiêu” (PJ VI 4).

Ký ức – nơi lưu trữ tài liệu cho trí hiểu – tích lũy những hình ảnh, những tiếng động, lời nói, tâm tình, tư tưởng mà cuộc sống đã thấm vào nó. Ký ức không ngớt phản ảnh chúng như trong một tấm gương hoặc như một đĩa hát, lập lại chúng, khiến đầu óc chúng ta tràn ngập hình ảnh và âm thanh quay cuồng. Vậy, để cho trí nhớ có thể kết hợp với Thiên Chúa, ta phải đưa nó vào thinh lặng và cô tịch, trong bình an và sự quên lãng, bằng cách hướng chúng về Chúa, và “kéo nó ra khỏi những giới hạn của nó… Vượt lên trên mọi hiểu biết rõ rệt, mọi sở hữu nắm bắt được, trong niềm cậy trông cao cả vào Thiên Chúa, vượt mọi hiểu biết” (MC III 2). Chỉ khi linh hồn hoàn toàn truất quyền sở hữu, thì mới thực sự sở hữu được Thiên Chúa nhờ kết hợp với Ngài.

Nhưng kẻ nghèo khó thật, cũng sẽ phải nhìn nhận mình bất lực, không thể tự sức mình đạt đến sự siêu thoát hoàn toàn này. Chỉ mình Thiên Chúa dẫn kẻ kiên trì trong cố gắng khiêm tốn của mình đến đó, và tạo nơi họ “con tim khó nghèo trống rỗng, con tim duy nhất có thể đón nhận kho tàng vô biên của Thiên Chúa” (LJ XIV). Con đường sẽ dài. Trong việc đi xuống này của khó nghèo, con người khát khao Thiên Chúa “học biết sự thật nỗi lầm than của mình” (NO 1.12). Con người mất đi ảo tưởng của mình và phát hiện gương mặt thật của mình. Có lẽ, không tự thú với mình, họ đã tưởng mình là một nhân vật quan trọng trước mặt Thiên Chúa, tưởng mình đã làm được chút gì cho Ngài, đã đạt được một mức “hoàn thiện” nào đó. Và này đây, hết tấm màn này đến tấm màn khác được xé tan trước mặt họ. Họ thấy mình nghèo nàn và trơ trụi, không thể làm sự thiện mình muốn, quá yếu đuối trước cơn cám dỗ. Con người tu đức ý thức rằng tất cả những gì mình đã hết ngày mình xây dựng, với tất cả lòng chân thành của mình, là một lâu đài bằng giấy đang sụp đổ. Họ nhận thấy mình không hơn gì anh em mình, rằng họ là một thành viên rất tầm thường của nhân loại, một kẻ tội lỗi giữa những kẻ tội lỗi khác. Đó chính là sự thật phũ phàng của họ. Nhưng khi con người nhìn nhận mình tội lỗi, và chấp nhận sự mỏng dòn của mình, Thiên Chúa cho sự thiện phát xuất ngay từ lỗi lầm của họ. Chỉ lúc đó thôi, mới có thể tôn thờ, có tương quan sự thật với Chúa, trong đó cái “hư vô” đo lường được hố sâu vô cùng phân cách mình với Đấng “Tất Cả”, vượt qua được hố sâu ấy nhờ Chiếc Cầu lòng thương xót vô biên của Chúa Cha. Đối với kẻ, bất chấp nỗi yếu đuối, bất lực của mình, vẫn tìm kiếm Ngài với một tấm lòng ngay thẳng, Thiên Chúa ban mình “cách kín đáo và thinh lặng… Vì, cũng như sáng sớm mặt trời mọc và chiếu rọi vào trong nhà nếu bạn mở cửa sổ, cũng thế, Thiên Chúa sẽ vào trong linh hồn trống vắng và làm cho nó đầy dẫy của cải Ngài” (VF III 3).

Đối với tu sĩ dấn thân vào đời sống nghèo bằng lời khấn, những đòi hỏi của đức khó nghèo bao hàm tất cả các lãnh vực sở hữu từ cái vật chất đến cái thiêng liêng nhất. Vì đức khó nghèo chỉ có thể coi là chân chính nếu nó vừa thiêng liêng vừa hiển nhiên. Lệ thuộc Bề Trên để sử dụng của cải chưa đủ, vì vấn đề là từ bỏ mọi sự vì Đức Kitô (Mc 10,21.28) và “bằng lòng với ít ỏi” (CAN II): Đức khó nghèo tu trì không phải là khổ sở, nhưng phải gần với điều kiện sống của những người ít lương bổng trong môi trường quanh mình, nếu muốn được đáng tin. Thánh Têrêsa Avila yêu cầu con cái người “luôn luôn có trước mắt đức khó nghèo mà họ đã khấn hứa” (Ct 21). Theo lời thánh Phaolô, đức khó nghèo này cho họ được “chan chứa niềm vui” (2Cr 8,2). Theo hình ảnh của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, các tu sĩ không có của riêng, nhưng mọi sự đều chung cho tất cả (Cv 2, 44; 4,32), và được phân phát cho mỗi người theo nhu cầu (Cv 4,34). “Về quần áo và thức ăn, ta bằng lòng với những gì nghèo nhất” (CAN 2), tùy sức khỏe của mỗi người. Các tu viện cũng cố gắng cho một chứng tá tập thể về đức khó nghèo bằng cách tránh tích trữ của cải và sự xa hoa, “sao cho khắp mọi nơi, người ta tìm thấy sự khó nghèo trong y phục, lời nói và hơn nữa, tư tưởng của chúng ta. Nhà chúng ta phải nghèo và nhỏ” (CP II). Đó là ý kiến của vị cải tổ Dòng Cát Minh.

Theo gương Đức Kitô, Đấng đã muốn “làm việc với đôi bàn tay con người” (GS 22) và, cùng với Chúa Cha, không ngừng hoạt động để cứu độ mọi người (Ga 5,17), người tu sĩ suy phục luật chung về lao động. Như vậy, họ tiếp tục công trình tạo dựng của Tạo Hóa và phục vụ anh em mình, tham gia vào hoàn cảnh của mọi người nam, người nữ kiếm sống. Các tu sĩ phải từ bỏ mọi nỗi lo lắng thái quá và nghĩ rằng, “chính niềm tin, sự hoàn thiện và phó thác vào một mình Thiên Chúa nâng đỡ họ (CT 21). Khi nhớ lời này của thánh Gioan Thánh Giá: “Chính sự lo lắng của chúng ta làm chúng ta nghèo nàn” (LJ XXIII). Trong trái tim của Đức Kitô, họ muốn yêu thương những kẻ nghèo trong thể xác và tinh thần và làm nhẹ bớt những khốn khổ của thời đại chúng ta tùy theo khả năng của họ, bằng cách tránh ích kỷ khép kín nơi mình. “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Như vậy, cùng với Mẹ Maria, chúng ta sẽ được kể vào số những người nghèo của Đức Chúa, “chờ đợi tất cả nơi một mình Thiên Chúa” (CC 23).

. Đức tin và vâng phục

“Phúc thay Đấng đã tin” (Lc 1,45). “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). Mẹ Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn Thánh Thiện, là gương mẫu cho đức tin cũng như đức vâng phục của chúng ta. Người đã tin vào sứ điệp không thể hiểu được của sứ thần và đã trọn vẹn đơn sơ thưa “Vâng” đối với Thánh Ý Thiên Chúa. Suốt đời Người, luôn luôn lắng nghe, Mẹ Maria, Đấng vô cùng thinh lặng, đã tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong mọi hành động của Mẹ.

Vâng phục là một mầu nhiệm đức tin (Rm 1,5)  khiến chúng ta liên kết với Thiên Chúa vô hình, hoạt động khắp nơi trong vũ trụ, cũng như nơi sâu thẳm nhất của mỗi con người. Đức Kitô đã đến trong thế gian để thực thi ý muốn của Chúa Cha (Dt 10,7), và “hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4,34). Theo gót Ngài, người Kitô hữu phải tuân phục thánh ý Chúa và cất khỏi mình tất cả những gì có thể chống lại việc này (MC II 5), vì đức vâng phục không chỉ liên quan đến các tu sĩ, mà còn đến tất cả những ai xưng mình thuộc về Đức Giêsu Kitô.

“Ai đến gần Thiên Chúa, phải tin là có Thiên Chúa   (Dt 11,6), tức là bước đi trong đức tin hướng về Ngài” (Mc 2,9). Vì không một tư tưởng nào, không một sự hiểu biết nào của con người có thể đạt đến Thiên Chúa, lại càng không thể nắm bắt Ngài được. “Tôi đi vào đâu, tôi không biết” (PJ IV,1). Con đường thiêng liêng là một con đường tối tăm. Thiên Chúa là ánh sáng, tuy nhiên, ánh sáng rực rỡ quá đến nỗi “đối với chúng ta nó trở thành tối tăm” (MC II.3). Như ánh sáng chói lòa làm mù mắt con dơi. Chính trong bóng tối thần linh này mà chúng ta phải đi từng bước một. Không phải ở chạng cuối cùng mà là con đường phía trước phải dấn bước. Lời Đức Giêsu: “Ta là Đường” (Ga 14,6). Chỉ một tia sáng thôi, hướng dẫn chúng ta trong bóng tối, tia sáng “bừng lên trong lòng chúng ta” (PJ V.3), tia sáng của đức tin. Phải vượt lên trên những tư tưởng rõ rệt của chúng ta về Thiên Chúa để tiến vào mầu nhiệm và, mắt nhắm, khép mình bên Chúa trong trơ trụi và tin tưởng. Như vậy, chúng ta sẽ cho phép Ngài giải thoát ta dần dần khỏi những “cách thức và giới hạn nghèo nàn của chúng ta” (Châm ngôn 38) ngăn cản chúng ta đạt đến Ngài như Ngài là. Việc bước đi trong đêm tối này giúp chúng ta tiến xa vào tận chiều sâu của Thiên Chúa. Mọi sự từ từ lắng xuống và linh hồn có thể nói rằng Bạn mình đã trở thành “đêm tối tĩnh lặng cho đoán được bình minh ló rạng” cho mình (PJ II.15). Bóng tối rực sáng lên, biến thành nghỉ ngơi và bình an, trong một sự hiểu biết mới mẻ về Thiên Chúa, nơi đó tâm trí êm dịu và yên tĩnh được nâng lên tới ánh sáng của Thiên Chúa” (CS VI.4), và được dạy dỗ, biến đổi mà không biết thế nào.

“Nhờ có được sự hiểu biết say mê và tối tăm này, Thiên Chúa kết hợp với linh hồn” (MC II.24), mà Ngài nhìn thấy sự quuyết tâm “xin vâng” trọn vẹn với Ngài. Vì quyết tâm cho lòng mến được diễn tả bằng việc làm phải luôn luôn liên kết với đức tin. “Kết hợp thực sự là làm cho ý chí của chúng ta nên một với ý chí của Thiên Chúa (LF V), thế nào để trong mọi sự và cho mọi sự, duy chỉ có ý Chúa thúc đẩy linh hồn thôi” (MC I.11).

Ý muốn này của Thiên Chúa được biểu lộ bằng nhiều cách, ngày này sang ngày kia, qua lời nói và giới răn của Thiên Chúa, các biến cố của cuộc sống và tiếng gọi của Chúa Thánh Thần nơi thâm tâm chúng ta. theo thánh Têrêsa Avila, cuối cùng, Chúa “chỉ yêu cầu chúng ta hai điều thôi: Mến Chúa và yêu người. Nếu chúng ta thể hiện trọn vẹn hai điều này, chúng ta thực thi ý Chúa, và bởi đó chúng ta được kết hợp với Ngài” (LD V.3). Chính cái nhìn đơn sơ của đức tin cho chúng ta nhận ra gương mặt Đức Kitô dưới những nét của anh em chúng ta và sẽ làm cho “trong suốt” tất cả những hoàn cảnh của con đường chúng ta, cho ta khám phá nơi đó ý muốn yêu thương của Chúa Cha – trong những hoàn cảnh giúp chúng ta lớn lên cũng như những hoàn cảnh làm chúng ta nhỏ lại trong Ngài. Vì Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta qua vô số bức màn, đôi khi gây ngỡ ngàng, dưới danh hiệu vui hay buồn, tối tăm hay ánh sáng, bình an hoặc khốn khó. Mẫu số chung duy nhất của chúng là thánh ý Chúa Cha, và như vậy, tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi sự hiểu biết. Ngay cả những gì ghi dấu Thập Giá Chúa Giêsu trên cuộc đời chúng ta đều tìm thấy ý nghĩa của nó trong một ý muốn mầu nhiệm của Thiên Chúa mà chúng ta gặp được qua “đám mây đen mù mịt” (MC II.3) là đức tin. Trong vườn Cây Dầu, đối diện với cuộc Thương Khó gần kề, Chúa Giêsu thưa: “Không phải ý con, mà là ý Cha” (Lc 22,43), tức là cái chết kinh khủng đóng đinh Thập Giá. Và khi bị anh em trong Dòng bách hại ghê gớm nhất, ít lâu trước khi qua đời, thánh Gioan Thánh Giá viết: “Không phải loài người làm những điều này, nhưng đúng là Thiên Chúa, Đấng biết những gì thích hợp cho chúng ta và an bài mọi sự vì lợi ích của chúng ta” (LJ 26). Vấn đề là đón nhận Thiên Chúa qua mọi sự “để không còn chia rẽ giữa Thiên Chúa và linh hồn nữa và ý muốn của đôi bên chỉ là một, không những chỉ trong lời nói và ước muốn thôi, nhưng trong thực tế của việc làm nữa” (CAN 3). Điều này sẽ không luôn luôn dễ dàng đâu, và thường khi phải tự ép mình, vì không phải không có lý do mà vị thánh cải tổ Dòng đã thốt lên: “Ý muốn của chúng ta có những hướng chiều khác với thánh ý Chúa dường nào! (CP 42), chỉ mình Ngài mới thể hiện nơi chúng ta việc “chuyển” từ ý muốn chúng ta đến thánh ý Ngài, và chỉ được vậy nếu chúng ta đành mất mạng sống mình” (Lc 9,24), mà Chúa Giêsu đã nói, như là một điều kiện để trở thành môn đệ. Nhưng “linh hồn được cởi bỏ các đam mê, ý muốn và không muốn, thì Thiên Chúa sẽ cho mặc lấy sự thanh khiết và ý muốn của Ngài” (Châm ngôn 145).

Đức tin cũng là cội rễ và biện minh cho đức vâng phục tu trì, muốn đi đến giới hạn cuối cùng của việc “dâng mình”. Kẻ vâng phục ra khỏi mình và khỏi ý riêng nên nhẹ nhàng, gắn bó với Thiên Chúa (Cn 210). Bởi lời khấn bao gồm trọn cuộc sống cụ thể, tu sĩ “không còn lo lắng cho bản thân và những gì thuộc về mình nữa” (Cn 92), tự do và hoàn toàn hiến dâng cho Thiên Chúa ý chí của mình nhờ vâng phục một Bề Trên. Nơi người này, họ nhìn không phải cá nhân của người ấy, nhưng là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nói với những thủ lãnh của Giáo Hội: “Ai nghe lời các con là nghe lời Thầy, và ai khinh các con là khinh Thầy” (Lc 10,16; RC trang 19). Dưới sự hướng dẫn của các Bề Trên, tu sĩ và nữ đan sĩ phục vụ mọi người, như chính Đức Kitô, vì phục tùng Chúa Cha, đã trở thành tôi tớ anh em mình và đã hiến mạng sống cho nhiều người (Mt 20,28; Ga 10,14-18). Tuy nhiên, vâng phục không phải là thụ động lệ thuộc một sự gò bó bên ngoài, nhưng là lựa chọn tự do và có trách nhiệm ý Chúa, xác tín bản thân và do lương tâm. Các tu sĩ phát huy trí thông minh và sức mạnh ý chí của họ, cùng với tài năng họ thủ đắc vào việc thực thi những nhiệm vụ được giao phó (PC 14), biết rằng mình cộng tác vào việc xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô, theo kế hoạch của Thiên Chúa. Nhờ vâng phục, chúng ta hạn chế quyền tự do lựa chọn của mình bằng cách chìu theo quyết định của Bề Trên, nhưng luôn luôn phải có một cuộc đối thoại thực sự và tin tưởng với các Bề Trên và cộng đoàn, làm tăng sinh lực cho việc vâng phục. Như vậy, đã không làm giảm phẩm giá con người, vâng phục đối với tu sĩ còn là giá phải trả cho sự tự do, sự thật, tình yêu. Đức vâng phục dẫn đưa họ đến trưởng thành, đến “tuổi viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13). Tuy nhiên, ta cũng không nên quên rằng, đức vâng phục đặt cơ sở trên mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô (Ph 2,6-8), luôn luôn bao hàm một khía cạnh sát tế.

Thực thi quyền bính là một việc phục vụ cộng đoàn, trong đó mọi thành viên đều bình đẳng về tự do và phẩm giá, vì mọi người đều là con của Chúa Cha, anh em của Đức Kitô và là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Các Bề Trên chu toàn nhiệm vụ quản trị của mình trong sự tôn trọng nhân vị và, như thánh Têrêsa Avila muốn, với lòng yêu thương phải có đối với những người con của Thiên Chúa. Họ tìm cách đưa các tu sĩ đến một sự cộng tác tích cực và có trách nhiệm, trong việc chu toàn nhiệm vụ của họ, cũng như trong các sáng kiến phải lấy, mà vẫn sử dụng bổn phận quyết định và hướng dẫn của mình vì lợi ích cộng đoàn. Lắng nghe Chúa Thánh Thần và mỗi tu sĩ, họ truyền đạt cho những người này ý muốn của Chúa Cha và nâng đỡ lòng trung thành của anh em. Như vậy, “đức vâng phục thần linh” (PRE II.2) sẽ làm tăng trưởng đức tin của các tu sĩ cũng như của các Bề Trên.

  1. Khía cạnh đặc thù của đời sống Cát Minh

Đời sống Cát Minh, nơi các tu sĩ cũng như các nữ đan sĩ, mang dấu ấn những khía cạnh đặc thù sâu xa. Những khía cạnh này bắt nguồn từ những truyền thống cổ xưa của Dòng và kinh nghiệm bản thân của thánh Têrêsa Avila, như người đã diễn tả trong các văn phẩm của người. Trước hết, đó là những kinh nghiệm tiêu cực tại tu viện Nhập Thể ở Avila: Không có nội vi, thiếu thinh lặng và cô tịch, đời sống bị xâm chiếm bởi những giờ giải trí vô hạn của xã hội thượng lưu. Những hoàn cảnh này ít thuận lợi cho một đời sống cầu nguyện mãnh liệt làm nẩy sinh trong lòng Têrêxa chiêm niệm, một ước muốn nồng nhiệt trở về với lý tưởng “tiên khởi” của Dòng Cát Minh, được đúc kết trong Luật Dòng 1247. Luật Dòng này thực ra là kết quả của cả một sự phát triển. Về nguồn gốc sơ khai của “Laure” (nhóm) Núi Cát Minh, không còn dấu vết nào có thể kiểm tra về mặt lịch sử cả. Có lẽ một ẩn sĩ đầu tiên đã định cư nơi này chăng ? Về sau, có lẽ những ẩn sĩ khác đã quy tụ chung quanh người chăng ? Có thể như vậy, nhưng không sao chứng minh được điều ấy. Tuy nhiên, trước khi Dòng Cát Minh đi vào lịch sử, đã có yếu tố cộng đoàn dưới một hình thức rất nhẹ nhàng trong “laure” các tu sĩ Cát Minh đầu tiên: các “Thầy tu ẩn sĩ” (RC) họp thành một cộng đoàn do một Bề Trên cai quản. Nhưng chắc chắn rằng chưa một hình thức cộng đoàn nào quy tụ các ẩn sĩ cả; họ sống, cầu nguyện, ăn uống ngay trong tu phòng của họ. Luật Dòng của thánh Alberto quy định hai hình thức chung đầu tiên khi dạy xây một nhà nguyện ngay giữa các tu phòng; các tu sĩ phải tụ họp tại đó mỗi sáng để tham dự Thánh Lễ. Hơn nữa, họ phải tụ họp một tuần một lần để cáo lỗi. Năm 1247, Luật Dòng được giảm chế, do Đức Giáo Hoàng Innocent IV tuyên bố, nhấn mạnh hơn nữa khía cạnh cộng đoàn bằng cách đưa vào việc cử hành chung các giờ kinh phụng vụ, dùng bữa chung, và khả năng quy tụ các tu sĩ trong những tu viện. Chính vì thế, dần dần đã kết tinh nét đặc thù của Luật Dòng này: Một sự quân bình sống động giữa đời sống ẩn tu và đời sống cộng đoàn. Vị cải tổ Dòng Cát Minh sẽ lấy lại cho mình dấu chỉ đặc biệt này bằng cách cho thấm nhuần tư tưởng của người và làm cho nó biến chuyển theo cách thức rất cá vị của người: “Lối sống mà chúng ta có tham vọng sống, không những là lối sống của những nữ tu, mà còn của những ẩn sĩ nữa” (CP 13). Vậy các tu sĩ và nữ đan sĩ Dòng Cát Minh vừa là ẩn sĩ, vừa sống cộng đoàn.

Ơn gọi Cát Minh còn mang đặc điểm một sự quân bình khác giữa hai đặc điểm chính yếu, bổ túc cho nhau; thậm chí, đối lập nhau: đời sống chiêm niệm và đời sống tông đồ, theo những truyền thống rất cổ xưa của Dòng, được kinh nghiệm và tư tưởng của hai vị tiến sĩ Dòng Cát Minh xác nhận, các tu sĩ và các nữ đan sĩ Cát Minh được mời gọi rõ rệt, hướng về chiêm niệm và “kết hợp mầu nhiệm với Thiên Chúa” (CC 12). Mẹ Têrêxa Chúa Giêsu viết: “Tất cả chúng ta mặc áo Dòng Cát Minh này, chúng ta được gọi hướng đến nguyện ngắm và chiêm niệm” (LD V.1). Không thể nào rõ ràng hơn nữa. Đàng khác, thánh cải tổ Dòng lần đầu tiên nêu rõ ý nghĩa tông đồ của mọi việc dấn thân vào đời sống chiêm niệm. Người được một trực giác ngôn sứ thực sự dẫn người đến đó, trực giác người nhận được khi nghe nói về cuộc cải cách Tin Lành đã làm vỡ tung pháo đài kiên cố, không kẽ hở, khép kính nơi chính mình là Giáo Hội thời Trung Cổ, và nỗi khốn khổ thiêng liêng lớn lao của những người da Đỏ ở Tân Thế Giới. Nhờ cảm nghiệm giá trị truyền giáo của việc cầu nguyện và đời sống dâng hiến cho Giáo Hội và thế giới, thánh Têrêsa Avila đã canh tân tinh thần của Giáo Hội như Hans Urs von Balthasar đã khẳng định. Vậy các tu sĩ và nữ đan sĩ Dòng Cát Minh vừa là chiêm niệm vừa là tông đồ, mỗi nhóm tùy theo đặc sủng của mình.

Thế quân bình giữa những sự tương phản trong ơn gọi Cát Minh, luôn gặp căng thẳng có thể mang tính sáng tạo và được đảm nhận, để trở nên nguồn bình an. Chính nhờ xem ý Chúa như là điều duy nhất tuyệt đối mà họ có thể chấp nhận những căng thẳng ấy và tái tạo liên lỷ, trên bình diện cá nhân hoặc cộng đoàn, thế quân bình khó khăn giữa “đời sống ẩn tu”  và đời sống cộng đoàn, chiêm niệm và việc tông đồ. Hai đặc điểm chính yếu của Dòng Cát Minh, tương phản và nghịch lý, mở ra trên cõi vô biên của Thiên Chúa và trên vũ trụ bao la của loài người, cũng như toàn thể tạo thành cùng “rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,22), cho đến khi nẩy sinh trời mới đất mới mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo (Is 65.66)

Vừa là “ẩn sĩ”, vừa sống cộng đoàn

  1. a) Đời sống ẩn tu

Trong buổi trao đổi phát sinh ra cuộc cải cách của thánh Têrêsa Avila, cháu gái của Mẹ đề nghị như sau: “Tại sao Dì không lập vài Đan Viện theo cách các ẩn sĩ ?” Nhưng trong bối cảnh xã hội thời ấy, phụ nữ không thể vào sa mạc được… Vậy thì tại sao không lập “một Đan Viện nhỏ với số ít nữ tu ?”. Ý tưởng này trùng hợp với những ước muốn của Têrêxa, chắc chắn không bao giờ nghĩ đến đời sống ẩn tu thuần túy. Trong bối cảnh cuộc sống và sự nghiệp của người, ta thấy rõ rằng người cũng bám vào khía cạnh cộng đoàn ngang với khía cạnh ẩn tu. Điều mới mẻ “mang tính ẩn tu” duy nhất của vị Sáng Lập Dòng là cho xây, trong khuôn viên các Đan Viện, những “ẩn viện”, nơi mà các nữ tu có thể đến đó để nguyện ngắm “như các thánh Tổ Phụ đã làm” (CT 32; CP 2).

Khía cạnh “ẩn tu” của Dòng Cát Minh mang hai đặc điểm chính, thiết yếu cho đời sống chiêm niệm: sự thinh lặng và cô tịch. Hai yếu tố này tạo nên bầu khí thuận lợi cho một cuộc sống đặt trọng tâm vào cầu nguyện. Các vị thánh và các nhà tu đức vĩ đại Dòng Cát Minh đã nhấn mạnh đến điểm này. Nhưng thinh lặng thật triển nở thành “lời nói” và cô tịch chân chính mở rộng thành hiệp thông phổ quát. Nơi đó, vấn đề là những thực tại nghịch lý; sự nghịch lý, cách nào đó, là lối tiếp cận duy nhất có giá trị, những gì đề cập đến tương quan trực tiếp với mầu nhiệm vô biên của Thiên Chúa.

Vả lại, thinh lặng và cô tịch liên kết sâu xa với nhau. Các thánh Dòng Cát Minh thường kết hợp hai điều này. Như vậy, chị Élisabeth Chúa Ba Ngôi: “Để cho không gì kéo tôi ra khỏi sự thinh lặng nội tâm tuyệt vời này, luôn luôn cũng một tình trạng ấy, cũng sự cô lập, sự tách biệt, sự lột bỏ ấy” (ET Ia.175). Thinh lặng và cô tịch tạo điều kiện cho nhau. Thánh Gioan Thánh Giá, trong bài Ca Thiêng, gần như đồng hóa thinh lặng và cô tịch. Khi nói về “cuộc hòa tấu thinh lặng” hoặc tiếng của mọi thọ tạo đồng thanh ca ngợi, bản “hòa tấu” chỉ nghe được trong “cô tịch đầy âm thanh” của siêu thoát mọi sự, cuối cùng, linh hồn nói rằng “bạn của mình và cả hai”, vậy là thinh lặng và cô tịch đều là một thực tại duy nhất nơi Ngài.

. Thinh lặng và lời nói

“Mỗi người phải chăm chỉ, cẩn mật giữ thinh lặng là thành trì của đức công minh” (Is 32,17). Điều quy định này của Luật Dòng Cát Minh thật cơ bản. Thinh lặng, vắng tiếng động, vắng lời nói – khi mà con người sinh ra phải dùng lời nói để diễn tả, để trao đổi với đồng loại. Thậm chí, của cầu nguyện nữa, chẳng phải là nói chuyện với Thiên Chúa ư ? Nhưng kìa, người ta đề nghị với chúng ta… Chúa biết, đối với chúng ta phải làm thinh là khó nhọc biết bao, và hơn nữa – dừng lại ngay, cái đĩa hát không hề ngừng quay trong đầu chúng ta – dù chỉ một giây lát thôi. Là vì đĩa hát ấy gây thích thú cho ta, và nó nói với chúng ta về chính mình. Và tất cả những gì làm đầy lỗ tai bên trong và bên ngoài của ta có vẻ làm cho chúng ta thêm phong phú, quên đi sầu muộn và lo sợ. Chúng ta khó lòng làm thinh và tránh tiếng ồn, bởi vì thinh lặng xé tan những tấm màn che lấp sự thật của chúng ta và khơi dậy nơi ta những đòi hỏi của chiều sâu. Làm sao ta không hoảng sợ được ?

Các yêu cầu của thinh lặng thật gay gắt đối với những ai được gọi sống đời chiêm niệm, vì thinh lặng là bầu khí rất cần thiết để cầu nguyện. Thinh lặng bên ngoài đã là quan trọng rồi. Mọi tiếng động làm chúng ta chia trí, kéo ta ra khỏi mình, khỏi trung tâm sâu thẳm nhất nơi Thiên Chúa ngự và đợi chờ chúng ta. trong các tu viện Dòng Cát Minh, phải giữ một sự thinh lặng tuyệt đối từ sau kinh Tối đến hết giờ kinh Sáng ngày sau. Còn trong thời gian còn lại, có thể nói chuyện nếu công việc và đức bác ái đòi hỏi. Tuy nhiên, trong các giờ giải trí, ta có thể tự do chuyện vãn. Có thể sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội ở một nơi cố định và cách vừa phải, để đừng hại cho tinh thần nguyện ngắm (CD 35). Mỗi tu sĩ chịu trách nhiệm về sự thinh lặng của tu viện mình, vậy phải canh chừng mọi cử chỉ của mình để tránh những  tiếng động và giữ mình đừng tán gẫu vô ích, vì “nói chuyện thì chia trí, còn thinh lặng và hành động nội tâm là ban sức mạnh cho tinh thần” (LJ 22.11.1587). Nếu lời nói và thừa tác vụ thuyết giáo không đâm rễ sâu trong thinh lặng, chúng có nguy cơ là tiếng ồn vô ích thôi. chỉ những lời phát xuất từ thành trì thinh lặng nơi trung tâm mới đạt đến chiều sâu của người khác được.

Nhưng thinh lặng thật, trước hết là ở nơi tâm: Biết bao tiếng ồn lẫn lộn nơi chúng ta, do bởi những cảm thức giác quan, những ước muốn, những nỗi lo sợ, vui buồn và cả vòng xoáy tư tưởng của chúng ta nữa. Làm sao đạt được thinh lặng nội tâm, sự tự do của tâm trí, điều duy nhất giúp chúng ta hướng trọn con người đến Chúa ? Trước hết, phải canh chừng “các lối vào” giác quan của chúng ta, và thuận theo cô tịch, “quên đi mọi sự và mọi biến cố” (JT 22.11.1587) – nhất là về mặt tình cảm – hướng về Thiên Chúa các chuyển động đam mê của chúng ta (ET 1a 175), biết “thinh lặng và đau khổ mà không xem xét lời nói hành động, đời sống kẻ khác” (Châm ngôn 159). Nhất là phải luôn luôn vượt lên trên tất cả những gì làm ta chia trí, bằng một ánh mắt hướng về Thiên Chúa đang hiện diện nơi thâm tâm ta.

Thánh Gioan Thánh Giá nói đến quên lãng. Vịnh gia nói với Tân Nương (Tv 44,11): “Hãy quên dân tộc mình”. “Dân tộc này là cả thế giới nơi chúng ta, đó là cảm tính, những kỷ niệm, cảm tưởng, nói tóm lại là cái tôi” (ET Ia 176). Nếu động lực của việc tìm kiếm thinh lặng này là một tình yêu lặng lẽ và chân thành, “coi mọi sự là thiệt thòi, so với cái lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô” (Ph 3,8), lúc đó, những sự đồng lõa thầm kín và những ưa thích bí ẩn của chúng ta, thuận lợi cho việc chia trí, sẽ từ từ rút lui.

Một khía cạnh căn bản khác của thinh lặng, chính là “hoạt động sâu xa của con tim biết lắng nghe” (Phaolô VI) – và lắng nghe là phần chính yếu của mọi cuộc đối thoại với Thiên Chúa và loài người. “Thính giác của trí chúng ta phải hướng về Thiên Chúa trong thinh lặng” (MC II 3), để nhận được lời sống động mà Chúa Thánh Thần nói riêng với chúng ta nơi thâm tâm. Lời hằng sống này hướng dẫn chúng ta trên đường tình yêu. Việc hăng say lắng nghe “điều duy nhất cần thiết” (Lc 10,42) mà Maria Bétania đã chọn, đưa tất cả hữu thể chúng ta vào thống nhất.

Ngay trên bình diện nhân bản, những điều tốt đẹp và sâu sắc nhất không thể diễn tả bằng lời nữa. Lúc đó, thinh lặng trở thành ngôn ngữ mạnh mẽ nhất. Trong tương quan của chúng ta với Thiên Chúa cũng thế, bởi vì “ngôn ngữ duy nhất mà Ngài hiểu được là tình yêu thinh lặng” (Cn 183). Tuy nhiên, ta không thể tự sức mình đạt đến sự thinh lặng viên mãn này được. Chính Thiên Chúa tạo nó nơi chúng ta: “Có thể nói rằng, Tân Lang, từ tòa nhà thứ bảy nơi Ngài ngự, lên tiếng không phải với những lời rõ ràng, và tất cả dân cư các tòa nhà khác thinh lặng ngay: tức là giác quan, trí tưởng tượng, quan năng, không dám động đậy gì cả” (LD VI 2). Và thánh Gioan Thánh Giá khẳng định: “Những sự thông đạt thiêng liêng nội tâm và ẩn kín mà Thiên Chúa ban cho linh hồn, gây nên một sự thinh lặng lơn lao trong giác quan và quan năng” (ND II 23), làm cho linh hồn hoàn toàn tập trung vào Ngài và quên đi những gì đã qua. Cuối cùng, chính Thiên Chúa là thinh lặng viên mãn này. “Chúa Cha chỉ nói một lời thôi, là Con Một Ngài. Và Ngài vẫn luôn luôn nói lời ấy trong một sự thinh lặng vĩnh hằng: linh hồn nữa, cũng phải lắng nghe lời ấy trong thinh lặng” (Cn 147).

. Cô tịch và hiệp thông

Kẻ khát khao, Thiên Chúa sẽ giải khát bằng cách khơi dậy cơn khát. Ngài sẽ quyến rũ họ, dẫn vào sa mạc và nói với lòng họ (Hs 2,16), theo thánh Gioan Thánh Giá, điều này nghĩa là “Thiên Chúa sẽ thông ban chính mình cho linh hồn và làm thỏa mãn lòng họ; để họ không hài lòng về điều gì kém hơn Ngài” (CS 35,4). Chính trong sa mạc, trong cô tịch của những chiều sâu, mà cuộc gặp gỡ với Chúa được thể hiện. Để tập trung tất cả chú ý vào Ngài, con tim phải chấp nhận cô đơn. Nhưng con người sợ cô tịch. Con người được xác định và cảm nghiệm như là bản vị đối diện với kẻ khác, hoặc đúng hơn, trong tương quan với người ấy. Khi họ ở một mình, họ chới với và không còn biết mình là ai nữa. Tuy nhiên, để được vào trong tương quan sống động với Thiên Chúa, nhà tu đức chắc chắn phải bị chới với và mất mọi nương tựa nơi bản thân và tha nhân, họ phải trở thành như một “sa mạc”, vì chỉ mình “con tim trống vắng và cô tịch mới đón nhận được những sự phong phú vô biên của Thiên Chúa” (LJ 8.7.1589). Lúc đó, chỉ mình Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu Kitô – Người Khác này, người Bạn này trở nên tương quan yêu thương đối với con người để “tái tạo” họ và làm cho họ trở thành chính mình, tức là một người con của Thiên Chúa.

Bước đầu tiên trên con đường này là chìm sâu, nếu được, trong cô tịch bên ngoài. “Anh em đừng hiện diện với các thọ tạo, nếu anh em muốn giữ gương mặt của Thiên Chúa rõ rệt và đơn sơ nơi tâm hồn mình” (Cn 33). Gương mặt bí nhiệm của Ba Ngôi Chí Thánh mà Nhan Thánh Chúa Kitô diễn tả cách hữu hình. Trong Dòng Cát Minh, hai nơi “giữ gìn” cô tịch bên ngoài là phòng riêng và nội vi – nội vi này nhặt đối với các nữ đan sĩ và một phần lớn đối với các nam tu sĩ.

“Mỗi anh em hãy ở lại trong tu phòng của mình hoặc gần đó, ngày đêm suy gẫm luật Chúa (1Pr 4,7), và tỉnh thức cầu nguyện (Tv 1,2), trừ khi bận việc gì khác với lý do chính đáng” – đó là đoạn quan trọng nhất, “cốt lõi” của Luật Dòng Cát Minh Têrêxa. Cô tịch chỉ có ý nghĩa khi nhắm đến cầu nguyện, tức là tương quan thân tình với Thiên Chúa và trong Ngài, hiện diện với mọi người. Đến lượt mình, Mẹ Têrêxa Avila nhấn mạnh nhiều đến cô tịch. “Chỉ ở chung với nhau vào những thời gian đã ấn định (CP 4), ở trong tu phòng của mình và không rời khỏi đó khi không có lý do” (Ý kiến). Thậm chí, trong các Đan Viện của người, người đã bỏ phòng làm việc chung. Đối với các nam cũng như nữ đan sĩ, tu phòng vẫn là nơi đặc biệt để gặp gỡ Thiên Chúa. Vào cuối đời, chị Élisabeth Chúa Ba Ngôi diễn tả như sau: “Tôi là bé “ẩn sĩ” của Thiên Chúa. Khi tôi trở về tu phòng nhỏ thân thương của tôi để tiếp tục đàm đạo với Thiên Chúa ở đó, một niềm vui thần thiêng xâm chiếm lấy tôi: tôi yêu thích dường bao được ở một mình với Ngài thôi, và tôi sống cuộc đời ẩn tu thật tuyệt vời” (ET Ib 409). Ở đây, chị ám chỉ một bản văn của thánh Têrêsa Avila: “Thưởng thức Đức Giêsu Kitô, Tân Lang của họ, và ở một mình với mình Ngài, đó là điều mà (các nữ đan sĩ Cát Minh) phải luôn luôn theo đuổi” (VF 36).

Ngày nay, nội vi nhặt được các nữ đan sĩ tự do sống, có thể mang ý nghĩa nào ? Nó diễn tả sự cô tịch trên bình diện cộng đoàn. Nhưng sự tách biệt này khỏi thế giới bên ngoài, được chọn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp với Thiên Chúa, đồng thời là “nơi” hẹn hò vô hình với tất cả mọi người và toàn thể vũ trụ. “Đấng Tạo Hóa nhìn thọ tạo của mình… hoàn toàn tĩnh lặng trong cô tịch nội tâm… làm cho họ đi vào chốn cô tịch bao la, “chỗ thảnh thơi” (Tv 17,20), được vị ngôn sứ ca ngợi và đó chính là Thiên Chúa” (ET Ia 176). Dĩ nhiên là trong Thiên Chúa, ta gặp lại toàn thể tạo thành. Nội vi cũng diễn tả và thể hiện tính cố định của đời sống chiêm niệm nữa: bình thường, các nữ đan sĩ Cát Minh sống suốt đời nơi đó. “Người phụ nữ trốn vào sa mạc” (Kh 12,6), nơi mà người phải ở lại “một thời, hai thời và nửa thời” (Kh 12,14). Trong sa mạc này là nội vi đan tu, nữ đan sĩ cũng phải “lưu lại” nữa. Ở nhà Chúa, lưu lại trong Thiên Chúa, Đấng cư ngụ nơi mình, ở lại đợi chờ Thần Khí đến, không ngừng cùng kêu lên với Tân Nương: “Xin ngự đến” (Kh 22,17), thôi thúc Chúa Giêsu sớm trở lại.

Còn quan trọng hơn nữa là, sự cô tịch nội tâm mà thánh Gioan Thánh Giá đã đồng hoá với hồi tâm (VF III 3), nhờ đó linh hồn chìm sâu trong sự hiện diện của Thiên Chúa nơi sâu thẳm nơi của mình. Để đạt đến đó, thánh Têrêsa đã khuyên rất cụ thể. Phải “cố gắng tách khỏi đó” (CP 24): “Chính Chúa Giêsu luôn luôn cầu nguyện như vậy… để dạy dỗ chúng ta”. Đọc một quyển sách tốt là một “phương thế rất hay để cầm trí” (CP 26). “Khẩu nguyện cũng giúp tập trung chú ý được” (CP 17). Nhưng “cách tốt nhất mà tôi tìm được, tức là dừng tư tưởng của tôi trên Đấng mà tôi cầu nguyện” (CP 30). Còn phải xa rời thế gian và bản thân, chanh chừng tư tưởng, đi vào chính mình và kiếm tìm bình an.

Vì thọ tạo là tấm màn ngăn cách linh hồn với Thiên Chúa (VF 16), “nên phải quên tất cả chúng đi” (MC 3,12), theo một nghĩa nào đó. Thậm chí, có lần thánh Gioan Thánh Giá đã nhấn mạnh – được lòng trìu mến của thánh nhân đối với gia đình và những người đến gần ngài bù lại: “Để đạt đến sự cầm trí lành thánh này… anh em phải yêu thương hết mọi người và cũng phải quên đi mọi người” (PRE I.1). Đây không phải là dửng dưng, nhưng là lòng mến tinh tuyền hơn, bắt nguồn nơi chính Thiên Chúa. Điều ta phải từ bỏ chính là sự quyến luyến vô độ, và muốn sở hữu người và đồ vật, cũng như mọi lo lắng bồn chồn vì của cải vật chất và những gì xảy ra bên ngoài hoặc trong thế giới thu gọn là một viện tu, và “không thể nào chấp nhận cùng một lúc nói với Thiên Chúa và thế gian được” (CP 24). Chỉ phải nhắm một hướng duy nhất sâu xa là: “Giữ tâm hồn trong sạch và trọn vẹn trước mặt Thiên Chúa, sao cho không một tư tưởng nào về bất cứ điều gì cản trở sự thiện hảo lớn lao này” (PRE I, 2).

Để con tim được thong dong cho Thiên Chúa, nó còn phải được giải thoát khỏi chính mình nữa, với sự trợ giúp của ơn Chúa. Đức Kitô là nguyên lý sự thống nhất bản thân chúng ta. Nếu ta lưu lại trước Nhan Thánh Chúa nơi thâm tâm chúng ta, nơi cô tịch này vốn là sự Hiện Diện của Thiên Chúa, theo lời Madelaine Delbrêl, tất cả hữu thể chúng ta được “tập họp thành một”, tĩnh lặng. Nơi đó, chúng ta là “nhân vị” duy nhất, không thay thế được, chỉ mình Thiên Chúa mới biết cách trọn vẹn được, và tràn ngập tình yêu “vô song” của Ngài về phẩm chất. Vì Thiên Chúa giống như người mẹ, dù đông con, nhưng mỗi đứa đều là đứa con “duy nhất” của bà, đứa con cưng hơn hết đối với bà, được bà âu yếm, quan tâm hết mình. Và này đây, cái “tôi” muôn mặt, lúc nhúc bên ngoài “thâm tâm” và được hình dung bằng những loài bò sát và con thú có nọc độc mà thánh Têrêsa nói đến (LD 11), chúng đến gây xáo trộn. Cái “tôi” này có những tên rất khác nhau: ấu trĩ, nghi nan, sợ sệt, ganh tị, tham vọng, kiêu ngạo, ích kỷ – vô số kể. Chính khi chúng ta đồng hóa với chúng, chúng ta không là “một” nữa, mà trở thành “đám dân” ồn ào náo động và ba hoa. Chúng ta xa rời sự hiện diện của Đấng Lang Quân không bao giờ ngớt nhìn chúng ta âu yếm (CP 26). Để tìm lại được Ngài, ta phải dần dần từ bỏ cái “tôi” hay làm ồn này và tìm cách tránh xem xét mình, làm chúng ta quay lưng cho Chúa. Nhất là chẳng ích lợi gì khi chiêm ngưỡng mình trong một “tấm gương”! Thánh Têrêsa Avila thốt lên: “Có gì năng nề và buồn tẻ hơn là không biết từ bỏ chính mình ?”(LD III,3).

Hồi tâm cũng đòi hỏi canh chừng tư tưởng của mình và đừng dừng lại nơi tất cả những gì hiện ra trong trí chúng ta (CP 24). Phải đưa tư tưởng chúng ta ra xa nơi ấy và đưa nó về với Thiên Chúa (CP 10), và muốn được vậy, “không nên lấy hết sức bình sinh mà làm, nhưng cách êm dịu để có thể kiên trì trong tĩnh lặng” (LD II,1). Thánh Gioan Thánh Giá khuyên: “Dù ăn, uống, nói năng hay làm bất cứ việc gì khác, hãy luôn luôn ước ao Thiên Chúa và hướng lòng mến của bạn về Ngài, vì đó là điều rất cần thiết cho cô tịch nội tâm. Điều này đòi hỏi linh hồn không dừng lại ở một tư tưởng nào không hướng về Thiên Chúa” (Ý kiến 4).

Nhưng tách rời khỏi những gì không phải là Thiên Chúa chưa đủ, còn phải rút lui vào bên trong bản thân nữa. thánh Têrêsa nhấn mạnh: “Hỡi các con, hãy đi vào, đi vào nội tâm, hãy vượt qua các việc nhân đức nhỏ bé” (LD 3,1). Không phải vì nhân đức đáng khinh chê đâu, nhưng vì nó là ân huệ của Thiên Chúa, nên để thực hành nó, ta phải gặp Ngài nơi sâu thẳm nhất của mình, “chỉ cần đi vào cô tịch, nhìn bên trong mình, và đừng xa lìa vị khách tuyệt hảo dường ấy”(CP 18).

“Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy…” (Ga 14,27). Không có cầm trí thì không có bình an nội tâm. Nhưng nhiều điều nơi chúng ta chống lại bình an nội tâm. Chướng ngại đầu tiên là ý riêng, mà chúng ta phải tìm cách hòa hợp với ý Chúa (LD 2,1) . Một kẻ thù khác là tính kiêu ngạo, vì chỉ khi “một linh hồn thực sự khiêm nhượng, Thiên Chúa mới ban cho họ bình an và am hợp với thánh ý Ngài” (nt). Ta còn phải đảm nhận những nỗi lo sợ của chúng ta nữa, những lo lắng, ưu tư của chúng ta, trong một ánh mắt hướng về Đức Kitô, Đấng làm chủ những phong ba bão táp có thể gây trở ngại cho chúng ta. Như thánh Têrêsa Chúa Giêsu đã nói: “Đừng để điều gì gây xao xuyến, đừng để điều gì làm bạn hoảng sợ. Mọi sự đều qua đi. Thiên Chúa không thay đổi. Đức kiên nhẫn đạt được tất cả. Ai có Thiên Chúa, chẳng thiếu thốn gì. Chỉ mình Thiên Chúa là đủ” (PM 6). Chị Élisabeth Chúa Ba Ngôi viết: “Cuối cùng, chính Chúa Kitô muốn trở thành bình an của tôi (Ep 2,14), để không có gì có thể làm tôi chia trí hoặc đưa tôi ra khỏi pháo đài không thể chiếm được của tĩnh lặng thánh thiêng” (ET Ia,179). Tự sức riêng mình, chúng ta không thể đạt được thinh lặng nội tâm.

Cô tịch dọn đường cho chiêm niệm và tác động sâu xa của Chúa Thánh Thần. Vì “chính trong cô tịch và hồi tâm mà Ngài thể hiện nơi linh hồn những điều huyền diệu thầm kín” (VF III,3). Linh hồn ngày càng được chính Chúa Kitô hướng dẫn:

Nàng sống cô đơn,

Và đã đặt tổ của mình nơi cô tịch.

Và Bạn cô đơn của nàng

Hướng dẫn nàng trong cô tịch

Chính Người cũng ngao ngán tình yêu nơi cô tịch.

                                                            (PJ II 35)

Cách nghịch lý, cô tịch cũng sẽ giúp yêu thương đồng loại đích thực hơn. Nó tạo nên “khoảng cách” khiến ta có thể đến gần tha nhân trong sự tôn trọng nhân vị và tự do của họ       – cho dù họ gây thương tích cho ta và từ chối ta: “Nơi nào không có yêu thương, bạn hãy đặt tình thương vào đó, và bạn sẽ gặt hái được tình yêu” (LJ 6.7.1581). Như vậy, cô tịch không phải là tự cô lập ích kỷ, mà là hiệp thông với Thiên Chúa và trong Ngài, với tất cả mọi người và toàn thể vũ trụ, như thánh Gioan Thánh Giá đã ca ngợi trong lời kinh của linh hồn say đắm: “Trời là của tôi và đất cũng là của tôi; các dân tộc là của tôi: những người công chính và cả những kẻ tội lỗi; các thiên sứ thuộc về tôi; Mẹ Thiên Chúa và tất cả mọi sự đều là của tôi, và ngay cả Thiên Chúa nữa cũng là của tôi và vì tôi, bởi vì Đức Kitô là của tôi và hoàn toàn thuộc về tôi” (Cn 42).

2. b) Đời sống cộng đoàn

Như chúng ta đã thấy, thánh Têrêsa Avila không bao giờ có ý định lập một viện ẩn tu, nhưng người đã muốn lấy lại theo ý ấy, toàn bộ Luật Dòng 1247. Khía cạnh cộng đoàn đối với người cũng quan trọng bằng cô tịch, mặc dù người đã muốn nhấn mạnh trên khía cạnh cô tịch này đối với các nữ đan sĩ Cát Minh.

Vậy đâu là ý nghĩa sâu xa nhất của mọi đời sống cộng đoàn, đặc biệt đối với những người thánh hiến ? Dường như nguồn gốc đầu tiên và gương mẫu cơ bản của mọi cộng đồng nhân loại và tu trì là hình ảnh sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa: hiệp thông sống động đặt nền tảng trên Tình Yêu bất biến, trong đó Ba Ngôi kết hợp với nhau, không phải để lẫn lộn, nhưng để đi vào lẫn nhau (Jean Damascène); hiệp thông trong đó, mỗi ngôi hiến cho các ngôi kia tất cả những gì là mình, tất cả những gì mình có, và nhận tất cả từ hai ngôi kia,và mỗi ngôi xóa mình trước các ngôi kia, để các ngôi ấy được hiện hữu sung mãn. Cuộc hiến dâng và xóa mình mà biểu tượng là “Chiên Con bị sát tế từ đời đời” được các giáo phụ nhắc đến và ta có thể nhận ra trong chén thánh đặt trên bàn tế lễ giữa tượng thánh Chúa Ba Ngôi của Rublev. Tình yêu vô biên hiến dâng vô cùng, xóa mình và hy sinh vô cùng – ta chỉ có thể bập bẹ và thinh lặng chìm sâu vào mầu nhiệm thôi… Nhưng chúng ta chẳng tìm thấy nơi đó các đặc điểm và điều kiện của nguồn hiệp thông huynh đệ đích thực ư ? Chẳng phải tình yêu làm nên cộng đoàn, quên mình vì kẻ khác làm cho cộng đoàn sống, xóa mình và hy sinh bản thân, giúp cho kẻ khác trở thành chính họ sao ?

Mọi cộng đoàn Kitô hữu và đặc biệt mọi cộng đoàn tu trì đều được Chúa Thánh Thần khơi dậy và được xây dựng trên Đức Kitô. Chúa Thánh Thần là “tiếng nói của Chúa Cha” gọi mỗi người trong chúng ta ở nơi sâu thẳm nhất, chẳng phải một lần dứt khoát, nhưng vô số lần, bởi vì mọi ơn gọi đều là thực tại sống động, luôn luôn được hiện tại hóa, hiện diện và mới mẻ, với tư cách là đòi hỏi và ân huệ. Và chính Thần Khí đổ tràn vào lòng chúng ta lòng mến Chúa yêu người (Rm 5,5), tình yêu duy nhất không thể phân chia, bởi vì chúng ta chỉ có một khả năng yêu thương thôi – cho dù “màu sắc” của nó thay đổi đến vô tận, mỗi người và mỗi mối tương quan vẫn là “độc nhất”. Duy chỉ trong tình yêu thôi mà một cộng đoàn có thể nẩy sinh, sống và phát triển, trong tình yêu vốn là Chúa Thánh Thần hiện diện nơi chúng ta. Cộng đoàn Kitô hữu và tu trì được xây dựng trên Đức Kitô, như đã định nghĩa do lời này: “Ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đó, giữa họ” (Mt 18,20). Chính sự hiện diện của Đức Kitô, sự sống của chúng ta, là nền tảng ở cơ sở của cộng đoàn. Sự hiện diện ấy cũng là nguyên lý sự hiệp nhất cộng đoàn, vì Đức Kitô quy tụ tất cả các chi thể của Ngài, trong sự hiệp nhất của Nhiệm Thể Ngài. Ngài làm điều này cách đặc biệt nhờ mầu nhiệm Thánh Thể của Ngài, trong đó việc chia sẻ cùng một Bánh Hằng Sống liên kết những kẻ tham dự vào đó. Lúc đó, toàn Thân mình Đức Kitô thấm vào thân xác chúng ta, tất cả Hữu Thể của Ngài xâm chiếm trọn hữu thể của chúng ta, vì thế, ta có thể nói rằng, Bửu Huyết của Ngài chảy trong tĩnh mạch chúng ta, và Linh Hồn của Ngài linh hoạt chúng ta. Vì, bởi sự Hiện Diện thực sự của Ngài, Đức Kitô biến đổi chúng ta thực sự nơi Ngài. Thánh Têrêsa nói: “Ở đây, chính là thực tại, sự thật tuyệt đối. Không cần đi tìm Đức Giêsu –Kitô ở nơi đâu khác bên ngoài ta” (CP 34).

. Cộng đoàn theo quan niệm thánh Têrêsa

Ngay từ lúc còn bé, vị Cải Tổ tương lai đã là một người có tài lôi cuốn kẻ khác, một “lãnh đạo”. Chính người đã thuyết phục anh mình là Rodrigue đi theo người đến nơi những người Hồi giáo để chịu tử đạo. Tại tu viện Nhập Thể ở Avila, cả một nhóm nữ tu theo gương người sống đời nguyện ngắm. Và thánh Têrêsa tụ họp quanh mình những giáo sĩ và giáo dân để khai tâm họ về cầu nguyện nội tâm. Trong Tiểu sử của người, người viết: “Nếu kẻ nào, nhờ ơn Chúa mà cố gắng đạt đến đỉnh hoàn thiện, tôi nghĩ rằng họ không bao giờ lên Thiên Đàng một mình đâu; họ luôn luôn kéo theo mình cả một đám đông; như đối với một vị vhỉ huy giỏi, Thiên Chúa ban cho họ những người cùng đi với họ” (VE 11). Phải chăng, những gì đã xảy ra đúng cho người khi thành lập Đan Viện Thánh Giuse ? Chính “với” bốn thiếu nữ đáng thương mà người thiết lập cộng đoàn bé nhỏ đầu tiên của mình, và sẽ kéo theo bao nhiêu cộng đoàn khác, suốt hơn bốn thế kỷ. “Vậy tôi đã quyết định làm điều ít ỏi tùy thuộc nơi tôi, nghĩa là noi theo các lời khuyên Phúc Âm cách hoàn hảo hết sức có thể, và giúp vài linh hồn đang ở đây cũng làm như vậy, tin tưởng vào lòng nhân từ lớn lao của Thiên Chúa” (CP 1).

. Một gia đình theo lối “cộng đoàn nhỏ” của Đức Kitô (CP 27)

Thánh Têrêsa xem cộng đoàn như là một gia đình các nữ tu (hoặc tu sĩ) yêu thương nhau. Theo hình ảnh nhóm tông đồ, cộng đoàn này do chính Chúa Kitô muốn thành lập. Thánh Têrêsa viết: “Chúa bảo tôi phải nỗ lực tối đa cho công việc này… mà rằng: Đan Viện này sẽ là một ngôi sao tỏa ánh huy hoàng” (VF 32) và người khẳng định nhiều lần: “Chúa Giêsu đã quy tụ chúng ta trong Đan Viện này” (CP 3), Đấng đã hứa sẽ ở giữa các nữ tu (VE 32). Theo lời Thánh nữ, Đan Viện Thánh Giuse thật sự là “chính ngôi nhà của Đức Kitô” (CP 8).

Cộng đoàn theo thánh Têrêsa, sẽ nhỏ như “nhóm của Đức Kitô”. Vị Cải Tổ dường như muốn bắt chước đến nỗi quy định số các nữ tu là 13 người – gồm mười hai môn đệ quy tụ quanh “Đức Kitô” được tượng trưng bởi vị Bề Trên: “Tu viện này chỉ được có 13 người và không được đông hơn nữa” (CP 4). Đúng là về sau, thánh Têrêsa cho phép mở rộng cộng đoàn đến 20 thành viên. Mục đích là tạo điều kiện thuận lợi cho tình bác ái huynh đệ nên người đã muốn giới hạn số các nam, nữ tu: “Tất cả chị em phải yêu thương nhau như Đức Kitô thường dặn tông đồ của Ngài, khi số chị em ít như thế, việc này sẽ dễ dàng hơn”, thánh Têrêsa đã viết thế trong Hiến Pháp của người.

“Rồi Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ người muốn… Người lập nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,13-14). Chúng ta gặp lại nơi đó hai điểm khác thân thương đối với vị cải tổ: con cái của người, cũng phải ở với Đức Kitô và tỏ ra sẵn sàng giúp đỡ Ngài. Ở với Đức Kitô, trước hết là tham gia vào vận mạng của Ngài, vào mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh của Ngài, cụ thể trong đời sống hằng ngày. Thánh Gioan Thánh Giá nói: “trạng thái cao nhất ta có thể đạt được ở đời này không phải là sảng khoái, thích thú và tâm tình thiêng liêng, nhưng là cái chết đau thương trên Thập Giá khả giác và thiêng liêng, tức là bên trong và bên ngoài” (MC II 7). Nhưng chết đây là để được sống, vì nó dẫn đến cuộc “Phục Sinh” là kết hợp thiêng liêng với Đức Kitô, và nơi Ngài, với cả Ba Ngôi Chí Thánh. Đồng hành với Đức Kitô còn là sống liên lỷ với Ngài, ngày này qua ngày khác, chia sẻ buồn vui với Ngài, “an ủi” Ngài (CP 1), “Đấng thật sự là Bạn đồg hàng của tâm hồn chúng ta” (CP 29). Thánh Têrêsa cũng muốn các tu sĩ nam nữ Dòng Cát Minh giúp Đức Kitô bằng cách hoàn toàn sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa và loài người – trước hết là những người ở gần, các thành viên của cộng đoàn – cũng như những người ở xa nhất. “Tất cả chúng ta đều cầu nguyện cho những người bênh vực Giáo Hội, những nhà thuyết giáo và những nhà thông thái nâng đỡ Giáo Hội, và như vậy, chúng ta sẽ giúp đỡ, theo khả năng chúng ta, Đức Chúa của linh hồn ta” (CP 1). Đối với các nam tu sĩ Dòng Cát Minh, việc tông đồ trong thầm kín này được bổ túc bằng một việc tông đồ trực tiếp, nhất là trong lãnh vực thiêng liêng.

. Tính đơn giản của Lề Luật và cuộc sống

Gia đình Têrêxa sẽ đơn giản lấy điều chính yếu làm quy tắc: “Hỡi các chị em và bạn của tôi, các chị đừng nghĩ rằng tôi sẽ bắt chị em tuân giữ nhiều luật lệ đâu. Thiên Chúa muốn chúng ta giữ trọn luật lệ mà các thánh Tổ Phụ đã buộc chúng ta và chính các ngài đã tuân giữ” (CP 4). Luật cơ bản là Luật Dòng 1247, nhẹ nhàng, kín đáo và mang tính Thánh Kinh sâu xa, ngày nay vẫn hợp thời như 700 năm về trước. Hiến Pháp đặc thù của thánh Têrêsa Avila nhằm thu gọn vào điều tuyệt đối cần thiết. Được soạn cho các nữ đan sĩ của người, Hiến Pháp này cũng cung cấp bản phác thảo Hiến Pháp đầu tiên cho các nam tu sĩ Dòng Cát Minh nữa. Sự đóng góp cá nhân của Thánh nữ nằm trong đường hướng nhấn mạnh đời sống cộng đoàn. Đàng khác, người quy định mỗi ngày hai giờ nguyện ngắm chung, trước hết về thời gian và sau này, cả nơi chốn nữa. Điều mới mẻ thứ hai hiển hiện nét độc đáo riêng của vị thánh cải tổ, liên quan đến các giờ giải trí cộng đoàn. Người đã không hoàn toàn “bày ra” những giờ giải trí này, vì nó được ban phép lần đầu tiên trong Sắc Lệnh của luật giảm chế năm 1435. Nhưng giờ giải trí của thánh Têrêsa khác hẳn. Sự miễn trừ rõ rệt nhất đối với luật thinh lặng mà vị cải tổ cho phép, liên quan đến những cuộc trao đổi thiêng liêng: “Mẹ Bề Trên sẽ cho phép nói chuyện khi hai nữ tu muốn cùng nhau đàm đạo để cho lòng mến Chúa thêm hăng say hoặc để khích lệ nhau khi cần thiết hoặc trong cơn cám dỗ” (CT 7).

Sau Công đồng Vatican II, những tuyên ngôn để canh tân Hiến Pháp tiên khởi các nữ đan sĩ Cát Minh đã được soạn thảo, hết sức tôn trọng tư tưởng và đặc sủng của thánh Têrêsa và rất quan tâm đến tính đơn sơ. Ta cũng có thể nói như thế về Hiến Pháp mới của các tu sĩ Cát Minh được cập nhập hóa theo các chỉ thị của Công đồng.

Những luật lệ đơn giản…, chúng trở lại với “tính đơn sơ lành thánh” (MC II 29), màtThánh Gioan Thánh Giá đã đề cập đến, và là một đặc điểm của cộng đoàn Têrêxa. Tính đơn sơ không coi trọng nhân đức, sự hiểu biết hoặc những ước muốn cao cả của mình (LT 17.9.1896). Không nhìn mình, linh hồn tìm cách hướng trọn ánh mắt về Thiên Chúa – và chính ánh mắt này làm cho linh hồn nên thống nhất và đơn giản trong việc tìm kiếm Chúa cũng như trong tương quan với người khác. Thánh Têrêsa Avila nói: “Ta hãy phụng sự Thiên Chúa trong tâm tình đơn sơ, trong khiêm nhượng và hãy chúc tụng Ngài vì những công trình kỳ diệu của Ngài” (LD 6). Và thánh Têrêsa Lisieux thêm: “Mọi sự đều trong sạch đối với những ai trong sạch” (TL 1,15), và “linh hồn đơn sơ ngay thẳng thì không thấy sự dữ đâu cả” (AM 40). Đơn sơ và sự thật theo nghĩa Thánh Kinh đều đồng nghĩa với nhau. Người đơn sơ là người ngay thẳng, không quanh co, biết mình luôn luôn ở trước Nhan Thánh Chúa và có khuynh hướng thuận theo ý Chúa. Người ấy không đoán xét, nhưng từ tâm đón nhận kẻ khác và xả thân theo con người thật của mình, không có sự “giả hình” do bởi tự xét mình và không lo lắng về dư luận của kẻ khác tạo nên. Tính đơn sơ cũng là đặc điểm của những con người mạnh mẽ, ta có thể nhờ vả, tin tưởng được, vì ta biết họ không có “hậu ý”, những “tấm lòng trung tín này”(Ne 9,8), không đánh lừa tình bạn hoặc giao ước. Người đơn sơ còn là đứa trẻ không mang mặt nạ trong Tin Mừng, vì “Nước Trời là của họ” (Lc 18,6), và ở trong số những kẻ “bé mọn” (Mt 11,25), được Chúa Cha mặc khải các mầu nhiệm sâu thẳm nhất của lòng Ngài. Ôi, tính đơn sơ thánh thiện bừng lên thành niềm vui và cuối cùng, bắt nguồn trong sự “hiệp nhất và đơn sơ vô cùng” của chính hữu thể  Thiên Chúa (VF 3,2) mà Ngài muốn chúng ta được đồng hóa (CS 18,4).

. Tình huynh đệ

Chất ximăng hiệp nhất tất cả cộng đoàn Kitô hữu là yêu thương nhau. “Bác ái huynh đệ quan trọng nhất đến nỗi Chúa Giêsu đã căn dặn điều này cho mọi người, và đặc biệt cho các môn đệ của Ngài” (CP 4). Thánh Têrêsa Avila nói về “tình yêu thiêng liêng họa lại và bắt chước thật sát tình thương của Chúa Giêsu, Amant xuất chúng, đối với chúng ta” (CP 7). Người nhấn mạnh nhiều đối với “các chị em của người, trong Đức Giêsu Kitô” (CP 1), trên tình bằng hữu huynh đệ: “tất cả chị em phải là bạn, tất cả phải yêu thương, quý mến và giúp đỡ lẫn nhau” (CP 5). Và đây là một lòng mến thật sự, đầy tình người, đầy tế nhị và ân cần. Một lòng mến không bao giờ thỏa hiệp với một tâm tình ác cảm, nhưng luôn luôn có khuynh hướng thắng vượt nó bằng hành động, bao phủ nó bằng ánh sáng Đức Kitô mặc khải cho chúng ta Gương Mặt các Ngài, nơi mọi con người. Bao lâu chúng ta chấp nhận trong lòng một sự thù ghét – dù với một người, một nhóm, một dân tộc hoặc một chủng tộc – lòng mến luôn luôn bị cắt bớt và chúng ta không còn thuộc trọn về Chúa nữa. Thánh Gioan Thánh Giá đã phải kêu lên: “Ai không yêu đồng loại, thì ghét bỏ Thiên Chúa” (Cn 108). Nếu chúng ta kiên trì trong cố gắng, có ngày Chúa Thánh Thần sẽ khơi dậy nơi chúng ta một hành động yêu thương mạnh đến nỗi nó sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi gút mắt có vẻ không thể nào gỡ được. Lúc đó, chúng ta có thể gặp gỡ kẻ khác được nơi hữu thể sâu xa của họ, không phân biệt lành dữ (PRE I.1), vì việc xét đoán là một cản trở đối với tình thương, và thánh Têrêsa Lisieux thốt lên: “Chỉ có bác ái mới giãn nở lòng tôi” (AM 272).

Nghĩ đến những kẻ có tình yêu vô vị lợi và thiêng liêng, vị cải tổ viết: “Lòng mến của họ chân thật hơn, hăng say hơn và hữu ích hơn: cuối cùng, đó là tình yêu. Những người này luôn luôn sẵn sàng cho hơn là nhận” (CP 6). Yêu thương không chờ mong được đáp trả, yêu thương những kẻ không yêu chúng ta và thậm chí, còn khinh dể chúng ta nữa, “từ bỏ những quyền lợi cuối cùng của mình và tự xem như đầy tớ kẻ khác vậy” (AM 274), và “hy sinh cho họ quyền lợi của mình nữa” (CP 7), tức là yêu thương theo Tin Mừng.

Thánh Gioan Thánh Giá khẳng định rằng “yêu thương đồng loại phát sinh từ lòng khiêm nhượng” (NO I.13). Biết rõ nỗi lầm than của mình, “linh hồn trở nên dịu dàng” và học biết “chịu đựng đồng loại và chịu đựng chính mình” (Cn 105). Phải bỏ mình vô số lần, “vui mừng vì sự thiện của kẻ khác như thể của mình vậy, và mong muốn trong mọi sự, người ta quý chuộng kẻ khác hơn mình, và làm như vậy với tấm lòng chân thành… Nhờ cách đó, anh em thắng được sự dữ bằng sự lành và có được niềm vui trong lòng” (PRE II.3).

Tình huynh đệ còn phải phổ quát nữa, như thánh Têrêsa H.Đ.G. đã nói rất đúng: “Bấy giờ, tôi hiểu rằng, bác ái trọn hảo là chịu đựng tật xấu của kẻ khác và không ngạc nhiên về những yếu đuối của họ, thán phục những hành động nhân đức nhỏ nhất ta thấy họ thực hiện; nhưng nhất là tôi hiểu được rằng bác ái không được khép kín trong lòng… mà phải soi sáng, gây thích thú, không những kẻ thân thích nhất với tôi, mà tất cả mọi người trong nhà, không trừ ai cả” (AM 264,5). Cũng phải tránh mọi biểu lộ tinh thần thế gian, coi trọng những phân chia xã hội và văn hóa, những “vấn đề danh dự”, vì tất cả chị em “phải sống trong bình đẳng hoàn toàn” (CP 27).

“Tình thương là hoạt động của ý chí” (MC III.17), Thánh Gioan Thánh Giá đã nói thế. Herbert Roth s.j đã nhận xét rằng lời khẳng định này có thể được giải thích như sau: Chúng ta không thể điều khiển mọi chuyển động của con tim, như mình muốn được, nhưng chỉ dùng ý chí mà tác động trên nói thôi. Ý chí là chìa khóa giúp chúng ta cởi mở hoặc khép kín lại, nhưng tình yêu của chúng ta hãy còn thiên vị và chúng ta chưa thể yêu thương “hết lòng” Thiên Chúa và anh em chúng ta được, nếu Chúa Thánh Thần, Đấng “đổ tràn tình yêu của Thiên Chúa trong lòng chúng ta” (Rm 5,5) không hướng chúng ta đến với họ.

Thánh Têrêsa, vốn say mê tình yêu, sẽ mạnh mẽ cảnh giác con cái người chống lại mọi chia rẽ trong cộng đoàn. “Nguyện xin Chúa đoái thương duy trì trong cộng đoàn sự bình an và đoàn kết. Khổ sở biết bao khi phải sống trong một nhóm nhỏ mà bất hòa! Xin Chúa đừng bao giờ cho phép điều này!… Vì tôi nhìn thấy đó là sự dữ đáng ghê sợ nhất cho một Đan Viện. Nếu điều này xảy ra cho chị em, chị em biết rằng: chị em bị hư mất rồi!” (CP 7).

Bác ái huynh đệ thậm chí phải tràn ra quá giới hạn các tu viện để lan rộng đến các nhà khác cùng Tỉnh Dòng, một vùng, một Hiệp Hội, giữa các nhà, sự tương trợ phải  được thể hiện theo khả năng của  mỗi nhà.

. Hội họp cộng đoàn

Luật Dòng chỉ nói đến một hình thức duy nhất để gặp gỡ cộng đoàn: Tu nghị cộng đoàn. Mục tiêu của buổi họp là tìm kiếm chung lợi ích của cộng đoàn, dưới ánh sáng Tin Mừng và trong bầu khí tôn trọng lẫn nhau, tình huynh đệ, tin tưởng và chân thành. Các đan sĩ giúp nhau cách đơn sơ và cùng thực hiện, trong tinh thần Luật Dòng, việc sửa lỗi cho nhau, bằng cách nhớ rõ nỗi bất toàn và tội lỗi của mình để khỏi liều mình “nhìn cái rác trong mắt người khác, mà không để ý đến cái xà trong mắt mình” (Mt 7,3-5).

Những giờ giải trí do thánh Têrêsa Chúa Giêsu lập ra mang đặc điểm “thân tình trong tương quan giữa chị em” (LF 13). “Hãy cố gắng vui vẻ với chị em khi chị em giải trí theo nhu cầu của họ” (CP 7), vì “một nữ tu càng thánh thiện, thì càng làm cho chị em dễ đến với mình” (Cp 41). Những giờ giải trí này trước hết, nhằm giảm bớt sự căng thẳng mà cô tịch có thể tạo nên, và đào sâu niềm hiệp thông huynh đệ (CP 7). Vả lại, “mọi sự đều được sắp xếp tốt đẹp đến nỗi, ở đó, ta học biết tật xấu của mình” (LF 13). Thánh Têrêsa Lisieux thêm vào khía cạnh quên mình: “Tôi phải tìm đến với các chị em khó chịu nhất…” (AM 295): “Tình yêu được nuôi dưỡng bằng hy sinh, linh hồn càng từ chối cho mình những thỏa mãn tự nhiên, tình âu yếm của họ càng thêm mạnh mẽ và vô vị lợi” (AM 283).

Những buổi họp khác sẽ cần thiết để thực hiện tốt phụng vụ hoặc để đối thoại huynh đệ về những vấn đề khác liên quan đến đời sống cụ thể của cộng đoàn và việc canh tân cộng đoàn liên lỷ, mà thánh Têrêsa đã ý thức sâu xa: “Về phần những ai bước theo chúng tôi… tôi xin họ vì lòng mến Chúa chúng ta, đừng bao giờ để cho sự hoàn thiện sút kém đi, dù chỉ trên một điểm duy nhất thôi… Bây giờ chúng ta bắt đầu. Nhưng ước gì ta hãy luôn luôn cố gắng bắt đầu lại và liên lỷ đi từ chỗ tốt đến tốt hơn” (LF 29).

Đời sống cộng đoàn “ẩn tu” đặt nền tảng trên tình yêu, đặc điểm của Dòng Cát Minh, được hoàn tất trong “sự tự do thánh thiện của tinh thần, giúp cho linh hồn bay về Đấng tạo dựng nên mình” (Cp 10), và “tìm thấy Thiên Chúa trong mọi sự” (LF 6), nhờ được nuôi dưỡng bằng sự từ bỏ hoàn toàn. Sự tự do trong tinh thần này cũng là nhìn xa thấy rộng và ý thức về điều chính yếu nữa. “Vậy, hỡi các con, hãy lánh xa sự gò bó. Một khi ta bắt đầu xiết chặt lại, thì nó sẽ cản trở cho mọi điều thiện hảo. Chị em hãy hiểu cho rõ: Thiên Chúa không dừng lại ở vô số điều tỉ mỉ đâu, như chị em tưởng tượng” (CP 41). Nhưng phải hết sức cảnh giác, vì nếu “mỗi người trong chúng ta không ưu tư như là một việc rất quan trọng là liên lỷ đi ngược với ý mình, ngàn điều sẽ cất mất của chúng ta sự tự do tinh thần thánh thiện ấy” (CP 10), “gặp được nơi những người hoàn hảo, và tất cả hạnh phúc ta có thể ước mong đều ở đó. Vả lại, chính khi không còn quyến luyến gì nữa, ta mới sở hữu được mọi sự ” (LF 5). Chính nhờ sự thong dong đó mà Thiên Chúa có thể tạo nơi chúng ta con người mới mà Evagre le Pontique mô tả cho ta cách tuyệt vời:

Người ấy tách rời mọi sự và kết hợp với mọi sự,

Thản nhiên và vô cùng nhạy cảm,

Được thần linh hóa,

mà vẫn coi mình như rác của thế giới.

Người ấy hạnh phúc vô cùng,

Hạnh phúc tuyệt vời.

Vừa là chiêm niệm, vừa là tông đồ

Vừa là chiêm niệm vừa là tông đồ

  1. a) Đời sống chiêm niệm

“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy mong muốn phải chi lửa ấy đã bùng lên” (Lc 12,49). Ngọn lửa này – “Lửa thiêng tình yêu là Chúa Thánh Thần” (VF 1,1) – đã vĩnh viễn bừng lên dưới thế ngày lễ Hiện Xuống. Thánh Linh, cùng với hai Ngôi kia của Thiên Chúa Ba Ngôi, sẽ thể hiện sự kết hợp của con người với Thiên Chúa – dù cho con người, được Chúa nâng đỡ cách bí nhiệm, phải nỗ lực để góp phần vào đó. Trước hết, ngọn lửa này sẽ bao trùm bức màn đêm tối để thiêu đốt linh hồn, hủy diệt những khuyết điểm của nó và mặc khải cho nó những yếu đuối trước kia nó không thấy (VF 14). Khi đã chuẩn bị linh hồn để được biến đổi tình yêu nơi Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần làm giãn nở và mở rộng linh hồn để làm cho nó có thể đón nhận Thiên Chúa nơi mình. Thiên Chúa, “Đấng vượt xa tất cả mọi sự” (Grégoire de Nazianze), làm rạng rỡ mọi danh xưng: Thiên Chúa, Đấng khôn tả, Đấng bất khả tri, sinh ra mọi loài và mọi sự tồn tại nơi Ngài và ở trong Ngài: Thiên Chúa, Đấng đi bước trước trong tình yêu thương con người – mặc dù con người chỉ là “giọt nước bám miệng thùng; hạt cát dính bàn cân” (Is 40,45) – đến nỗi ban Con Một Ngài để con người trở thành Thiên Chúa. Mầu nhiệm Thập Giá và mầu nhiệm vinh quang, đó là đặc điểm quan trọng của thực tại bao la, tức là tương quan của con người với Chúa của mình.

. Đường lối của Thiên Chúa.

Các thánh vĩ đại Dòng Cát Minh đã nói về đời sống thiêng liêng cách đúng đắn và sâu sắc vô song. Chúng ta sẽ nghiên cứu về đời sống này dưới ánh sáng giáo huấn của các ngài, từ các bước đầu của việc khổ chế cho đến việc kết hợp vĩnh viễn với Đức Giêsu, mà thánh Phaolô đã “mô tả” cho chúng ta: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá, tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Điều kiện thứ nhất cho sự kết hợp là thông phần vào mầu nhiệm Thập Giá, không có nó thì không có Phục Sinh. Được Thánh Linh thúc đẩy, con người phải đi vào đó như thể bởi cố gắng của mình. Chính Thiên Chúa, sau đó, sẽ làm họ tiến sâu hơn nữa. Như thánh Basiliô đã nói: “Chúa Cha là Tình Yêu đóng đinh thập giá, Chúa Con là Tình Yêu bị đóng đinh thập giá, và Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô địch của Thập Giá”. Vậy con người sẽ phải để cho mình bị đóng đinh thập giá với Tình Yêu chịu đóng đinh thập giá, trong sức mạnh của Thần Khí, để “trở thành Đức Kitô” và đạt đến niềm vui của Thiên Chúa.

Trong các tác phẩm của hai vị tiến sĩ Dòng Cát Minh, các ngài đã trình bày thần tình đường lối của Thiên Chúa, mỗi vị theo kinh nghiệm bản thân mình, Mẹ Têrêsa Chúa Giêsu, cụ thể hơn, nói về một lâu đài tuyệt diệu, đục trong một khối kim cương duy nhất, “trong đó” có nhiều phòng ốc như trên Thiên Đàng có nhiều chỗ ở vậy” (LD 12); tuy nhiên, không nên hình dung chúng nối tiếp theo hàng với nhau ở trung tâm có phòng, nơi Thiên Chúa lưu lại, và xung quanh phòng ấy, có các phòng khác – “Vô số” (LD I 2), mặc dù để đơn giản hóa, Thánh nữ chỉ liệt kê bảy phòng thôi. Ta phải tự do đến đó mà đi lại, dưới sự hướng dẩn của Chúa Thánh Linh, để đạt đến trung tâm lâu đài. Thánh Gioan Thánh Giá, trí thức hơn, vẽ con đường thiêng liêng dưới hình một đường dốc, qua những “đêm tối” hoặc thanh tẩy đôi khi khủng khiếp, hướng về ánh sáng của ngọn Lửa Thiêng Tình Yêu. Ở đó thánh nhân phân biệt ba giai đoạn chính: đêm tối chủ động của tình cảm và trí khôn, đêm tối thụ động của tình cảm và trí khôn, và cuối cùng sự kết hợp với Thiên Chúa. Nhưng phải thêm ngay rằng sự sống không chịu giam trong hệ thống nào cả. Hành trình thiêng liêng của mỗi con người sẽ độc đáo. Các giai đoạn được các thánh phân biệt có ở đó trong những nét chính, cách này hoặc cách khác, nhưng “không cùng một cách thức cho hết thảy mọi người… vì những điều ấy tùy thuộc vào ý Chúa” (NO 1 14).

* Khổ chế và thanh tẩy

Thể theo vinh quang vô cùng của Đích Điểm, các đòi hỏi của các thánh Dòng Cát Minh về hành trình dẫn đến đó, thật tuyệt đối. Các ngài không chấp nhận nửa vời, dù đối với sự khắc khổ hoàn toàn thể lý – được đề cao ngày xưa – các ngài đã luôn luôn căn dặn một sự kín đáo khôn ngoan: “Tôi muốn người ta đòi hỏi nhiều về các nhân đức chứ không phải về những sự cứng rắn” (LM 12.12.1576). Và thánh Gioan Thánh Giá lại nói quá hơn nữa: “Không có vâng phục, việc hãm mình thể xác chỉ là một việc hãm mình của thú vật thôi” (NO 1 6). Trong Dòng Cát Minh, mục đích cơ bản của khổ chế là chú ý đến Thiên Chúa, kêu gọi chúng ta hoàn toàn tập trung vào Ngài (EXC 4). Nhưng, để chỉ còn nhắm độc nhất điều ấy thôi, ta phải từ bỏ tất cả những điều khác và nhất là “bứng rễ cái tôi… chối bỏ mình mỗi khi ta gặp nó” (ET 1 138) và “quên mình hẳn” (PJ 6).

Trên đường dẫn đến ngọn núi hoàn thiện, thánh Gioan Thánh Giá đã gieo lời đơn giản này: “Không gì cả”. Một hôm người ta trông thấy Dona Ana de Penalosa khóc lóc quỳ dưới chân người. Và người nói: “Không gì cả, không gì cả, không gì cả đến nỗi bỏ cả mạng sống và mọi sự khác vì Đức Kitô!”. Một ý niệm không nhân nhượng nữa: “Trống không”, trở lại dưới ngòi bút của người: “Linh hồn phải hoàn toàn và tự ý trống vắng tất cả những gì có thể rơi vào mình, từ trên xuống và dưới lên, theo tình cảm và ý muốn” (MC II 4). Người ta không thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự mà không trống vắng đối với mọi sự được” (VF III 3). Đây không phải là phủ nhận tuyệt đối không có ý nghĩa gì cả, nhưng là một cố gắng kiên trì từ bỏ, kèm theo lời cầu xin này: “Lạy Chúa, xin tạo nơi con quả tim trong sạch để con nhìn thấy Chúa” (TV 50, 12; Mt  5, 8).

Đêm tối.

Những đòi hỏi khổ chế của các thánh Dòng Cát Minh thật triệt để, bởi vì hành trình thiêng liêng nhằm  kết hợp với Thiên Chúa. Trong hành trình này, linh hồn “hăng say trong một tình yêu đầy khắc khoải” (PJ I 1) hướng về Thiên Chúa với tất cả niềm cậy trông của mình, theo các giáo phụ Hy lạp đó là chính Thánh Linh lôi cuốn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Thánh Gregorie de Nysse còn khẳng định rằng ước muốn tức là được nhận lời rồi: “Gặp được Thiên Chúa tức là không ngừng tìm kiếm Ngài… không bao giờ chán ước mong Ngài tức là thực sự nhìn thấy Thiên Chúa”.

Thánh Gioan Thánh Giá đã mô tả cách tài tình “việc linh hồn đi đến kết hợp với Thiên Chúa” mà người gọi là đêm tối (MC I 2). Việc ấy thế nào ? Có hai loại đêm tối, một đêm tối liên quan đến phần tình cảm và đêm tối kia liên quan đến phần thiêng liêng của linh hồn. Và mỗi đêm tối mang hai dạng: một dạng chủ động bao gồm “tất cả những gì linh hồn có thể làm và đang làm trong công cuộc thanh tẩy” (MC I 12) và dạng kia, thụ động, “ trong đó chính Thiên Chúa thể hiện nơi linh hồn và linh hồn chỉ chịu đựng thôi” (MC 1 3). Nhưng ta không nên vạch rõ biên giới giữa các khía cạnh của các biên giới này. Trong cụ thể của cuộc sống đây là chuyển từ khía cạnh này đến khía cạnh kia. Bước đầu tiên của con người hướng về Thiên Chúa đã là đáp trả một lời mời gọi trước đó của Thiên Chúa.

Tận hiến.

Đêm tối chủ động trước hết là hiến dâng và chấp nhận đánh mất mọi sự và chính mình nữa. Ở giai đoạn này, vị tiến sĩ thần bí nhấn mạnh đặc biệt hơn trên việc bắt chước Đức Kitô “là cửa và con đường dẫn đến kết hợp với Thiên Chúa” (MC II 8). Như Ngài, ta sẽ phải chấp nhận đi vào cái “chết đau thương của thập giá khả giác và thiêng liêng, tức là bên trong và bên ngoài” (nt) Mối tương quan với Thiên Chúa phải được trau dồi qua tất cả những gì xảy ra trong cuộc sống mỗi ngày. Chúa không bằng lòng với những lời nói hoặc những tâm tình tốt đẹp: “Ngài quí chuộng những “việc làm” vì Ngài, trong khô khan và khó khăn về tinh thần” (CS 22). Con người phải dồn về Đức Kitô tất cả các giao động mãnh liệt, những “khát vọng mãnh liệt” mà thánh nhân thường nói đến. Dồn chúng về một hướng chứ không phải “giết” chúng hoặc “dồn nén” chúng: Con gom tất cả sức lực các khát vọng mãnh liệt của con về một mình Chúa” (MC 1 10).

Việc xả thân trước hết được cụ thể hóa trong việc từ bỏ một quyến luyến sai lệch đối với thọ tạo. Không phải là khinh chê hoặc từ chối các thọ tạo, nhưng vượt lên trên chúng để gặp Đấng Tạo Hóa qua chúng và trên chúng. Dần dần, theo những tiếng gọi nội tâm, ta sẽ phải học biết trở nên  trống vắng, khó nghèo thiêng liêng. Linh hồn phải liên lỉ nhân lên những bằng chứng tình yêu này, cho đến khi không còn bị điều gì ngăn cản làm và chịu đựng bất cứ gì vì Ngài” (CS 21), vấn đề ở đây không phải là thành tích, nhưng là tình yêu đơn sơ tìm cách lôgích với mình thôi.

Việc thanh tẩy trí tuệ con người theo ba quan năng sẽ là công việc của các nhân đức đối thần, ân cần luyện tập dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Ta sẽ phải vượt lên trên các kiến thức rõ ràng về Thiên Chúa để đi vào trong Mầu nhiệm, qua “đám mây mù và tối tăm” (MC 1,3) là đức tin, kéo trí nhớ – trí nhớ của con tim làm rung động cảm tính – quá giới hạn của nó để đưa nó lên “trên chính mình… đến niềm cậy trông cao cả của Thiên Chúa không thể hiểu thấu được” (MC III 2): thanh tẩy ý chí khỏi những đam mê và tình cảm của nó, để nó “trở thành ý muốn của Thiên Chúa, đồng hóa với thánh ý Chúa” (MC III 16) và giải phóng con tim “khỏi tất cả những sự dữ và khỏi tất cả những thiện hảo  không tuyệt đối là Thiên Chúa” (CS 3). Như vậy, nhờ chân thành trong cố gắng, linh hồn góp phần vào việc đào nơi mình” khả năng đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa để được hoàn toàn biến đổi” (MC 15). Và lúc đó ta nhớ lại châm ngôn của các Tổ Phụ: “Hãy hiến máu của bạn và hãy nhận lấy Thần Khí”.

Ảnh hưởng của Thần Khí .

Trong phạm vi linh hồn lột bỏ chính mình, thì chỗ trống vắng được tạo ra nơi đó thu hút Thần Khí; Đấng sẽ dẫn linh hồn vào đêm tối thụ động. Ngài dẫn linh hồn vào chốn tối tăm “nơi mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” (TV 62, 2) Dưới tác động của Ngài, những thể thức sống và hoạt động của con người từ từ được biến đổi. Tương quan của họ với Đức Kitô, nguyện ngắm ngày càng trở nên chiêm niệm thụ động và khô khan. Linh hồn nhớ đến Ngài với lòng thống hối, đau buồn tưởng mình không phục vụ Ngài – mặc dù vẫn khắc khoải yêu mến tìm kiếm Ngài (MC II 13). Linh hồn bị thử thách, thanh luyện và củng cố bởi mọi thứ cám dỗ (VF 1. 3), những cám dỗ này mặc khải cho linh hồn vô số đam mê thầm kín. Đó là những xung năng cơ bản nơi con người đã thành đối tượng cho những cám dỗ của Đức Kitô: ước muốn sở hữu, thống trị, để cho người ta thán phụ mình (Cyrille Argenti). Khát khao Thiên Chúa hằng sống, con người học biết sự thật về nỗi lầm than của mình” (NO 1. 12). Họ mất đi ảo tưởng của mình và khám phá gương mặt thật của mình, nhận thấy rằng mình chẳng hơn gì anh em của mình, rằng mình là một thành viên rất tầm thường của nhân loại, một kẻ tội lỗi giữa những kẻ tội lỗi khác. Ngọn lửa “không còn nuôi dưỡng linh hồn nữa, và cũng không mang lại bình an nữa, nhưng thiêu đốt và tố cáo linh hồn, làm cho nó yếu sức và rầu rĩ khi biết mình” (VF 1 4) việc biết mình giống như nền tảng để hiểu biết Thiên Chúa: vì không ai biết được Thiên Chúa, nếu trước tiên không biết chính mình” (Philocalie). Nhưng đã làm vững vàng lòng can đảm của con người, Isaac người Syrie nói thêm: “Kẻ nhìn thấy tội của mình, thì lớn hơn kẻ làm cho người chết sống lại”.

Đồng thời, các thử thách bên ngoài nổi lên dữ dội chống lại linh hồn: bạn bè phản bội, khinh dể; mất hết các điểm tựa vào người đời. Đầy dẫy âu lo và tối tăm, tưởng mình bị Thiên Chúa bỏ rơi, linh hồn cảm thấy mình đang bị hủy hoại và chết. Nhưng “linh hồn ở trong cái mồ đêm tối này để được phục sinh thiêng liêng như lòng mong ước” (NO II 6). Thất vọng, con người tự nhủ: “Không ai đến đó được đâu…” (PJ VI 4). Và rồi, đột nhiên họ hiểu rằng Thiên Chúa chờ đợi họ tận phía dưới, rằng họ phải bỏ cuộc, bỏ mọi sự và chính mình nữa để phó thác cho một mình Ngài thôi. Nhờ có tình yêu vận chuyển, họ liều mình “nhảy vào bóng tối”(PJ VI 3) của sự phó thác trọn vẹn. Họ chỉ còn là một vực thẳm nghèo nàn, một tiếng kêu lên Thiên Chúa trong đêm tối, bởi “sự tẩy rửa mạnh mẽ và thanh luyện cay đắng này”, Thiên Chúa sẽ từ từ chữa lành và thống nhất con người, lột xong “lớp da cũ của họ” (NO II 13) để mặc cho họ con người mới: Đức Giêsu – Kitô (Ep.4, 24 và Gl 3, 27). Bây giờ đã có những khoảng trời quang mây tạnh rồi. Nhờ Chúa thỉnh thoảng viếng thăm (NO 11-12) tâm trí của con người được trầm lắng cách siêu nhiên. Ngay khi những xung năng và quan năng của họ được lắng dịu và củng cố trong thống nhất” (NO II 24). Con Thiên Chúa sẽ kết hợp với họ .

* Cầu nguyện “ngày đêm”.

“Trong luật Dòng tiên khởi của chúng ta có nói rằng, chúnh ta phải cầu nguyện liên lỷ” (CP 4). Thánh Têrêsa Avila khám phá nơi đây khía cạnh cơ bản nhất của Dòng Cát Minh, dư âm trung thực của Tin Mừng, vì Chúa Kitô khuyến cáo các môn đệ của Ngài “phải cầu nguyện luôn không được nản chí” (Lc 18,1). Đan sĩ phải là một sự hiện diện cầu nguyện, không những cách chủ động, mà còn cách hiện sinh nữa, họ phải trở thành cầu nguyện. Và vì họ tách rời mọi người vì Thiên Chúa, đồng thời họ lại hiệp thông với mọi người: khi được biến đổi, họ biến đổi thế giới. Mọi lời cầu nguyện đều mang tính vũ trụ và cộng đoàn (Kallistos Ware), vì kẻ cầu nguyện không bao giờ là một kẻ “cô lập”.

Cầu nguyện ngày đêm chẳng phải là không tưởng ư ? Mẹ Têrêsa Chúa Giêsu cho chúng ta chìa khoá ẩn ngữ bằng cách nhấn mạnh trên tình yêu. “Linh hồn tấn tới trong cầu nguyện không phải nhờ suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu mến nhiều” (LF 5). Lời này của thánh nữ như vọng lại cách sống động học thuyết thâm thúy của các Giáo phụ: làm sao không vắn tắt nhắc đến được ? Chúa Kitô nói: Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,21). Trong con người, chỗ của Nước Thiên Chúa nơi Chúa Thánh Thần hiện diện là trái   tim, cũng là nguyên tắc thống nhất toàn bộ nhân vị. Vì tội lỗi đã phá vỡ sự hiệp nhất này – nhất là sự kết hợp trí khôn với con tim – người Kitô hữu phải góp phần tái tạo sự thống nhất ấy. Điều “chia rẽ” con người đó là những tư tưởng, những ý niệm tạo nên ngẫu tượng về Thiên Chúa, theo lời thánh Gregoire de Nysse, và phá rối sự hồi tâm của linh hồn đặt trọng tâm nơi Đức Kitô. Gregoire ở núi Sinai nhắc đến “những kẻ chỉ cầu nguyện một mình Thiên Chúa trong lòng và không có tư tưởng”. Và này đây chúng ta được đưa trở về với “việc mến yêu chú tâm vào Thiên Chúa mà không suy tư gì đặc biệt cả” (MC II 13) và “tình yêu thinh lặng” (Châm ngôn 183) được thánh Gioan Thánh Giá nói đến. Các giáo phụ cho chúng ta phương thế để cho “cái đầu” liên kết với con tim là lời cầu Chúa Giêsu, được các ngài xem như tóm  tắt toàn bộ Tin Mừng; “Lạy Chúa Giêsu – Kitô, con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Lời nguyện cũng mang tính Ba Ngôi, sâu xa: nó là một tiếng kêu cầu Chúa Giêsu, Con Một Chúa Cha để Ngài thương xót bằng cách ban Chúa Thánh Thần, là tình yêu cho chúng ta, tức là tha thứ. Lập lại lời kinh đó mọi lúc, ngay khi ta cảm thấy trống rỗng hoặc chia trí, lời kinh ấy “thu hút” và thống nhất tâm trí chúng ta và như vậy là làm cho nó “đi xuống trái tim”. Trong cơ bản, chính tình yêu khiến ta có thể cầu nguyện liên lỷ được, vì “kẻ yêu thật thì yêu Bạn mình khắp mọi nơi” (LF 5) luôn luôn và khắp nơi.

Cầu nguyện liên lỷ bao gồm tất cả những gì tạo nên và nuôi dưỡng mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa: đời sống bí tích và phụng vụ, học hỏi và suy gẫm Thánh Kinh, nguyện ngắm dưới mọi hình thức. Nếu ta nhấn mạnh trên nguyện ngắm là vì nó là linh hồn của mọi kinh nguyện.

  1. Đời sống bí tích và phụng vụ.

Nguồn mạch và đỉnh cao mối tương quan của chúng ta với “Thiên Chúa là đời sống bí tích và phụng vụ, nhờ đó mà kế hoạch cứu độ được thể hiện cách ưu tiên nơi mỗi kitô hữu và qua người này, nơi toàn thể nhân loại liên đới với nhau. Qua các bí tích, Đức Kitô trong Thánh Thần đụng đến chúng ta ở chiều sâu, thông truyền sự sống, ơn tha thứ, tình yêu của Ngài cho chúng ta và đảm nhận chúng ta trọn vẹn để lôi cuốn chúng ta hướng về Chúa Cha. Phép Thánh Tẩy, “bí tích soi sáng”, thiết lập cách sung mãn – và đồng thời theo cách một cái mầm, phải phát triển suốt hành trình của chúng ta – tình bằng hữu đích thân của chúng ta với Thiên Chúa được chôn vùi trong cái chết của Đức Kitô, chúng ta được sống lại trong một cuộc sống mới, trở nên con cái trong Chúa Con. Bí tích Thêm Sức làm bừng lên nơi chúng ta một cách mới mẻ, Chúa Thánh Thần khiến chúng ta trở thành chứng nhân và “ngôn sứ” của Chúa trước mặt thế gian. Chu kỳ phụng vụ nhắc nhở cho chúng ta các mầu nhiệm Chúa Kitô và Đức Mẹ, cho chúng ta đích thân tham gia vào đó và trong Giáo Hội, không phải như những biến cố thuộc quá khứ, nhưng như những thực tại vĩnh viễn hiện diện nơi Đức Kitô vinh hiển. Phụng vụ Dòng Cát Minh là phụng vụ của Giáo Hội Roma mang đặc tính đơn giản, nhắm điều chính yếu. Thánh lễ và Kinh Thần vụ với nền tảng thiết yếu là học hỏi và suy gẫm Thánh Kinh là những hành động cơ bản của nền phụng vụ ấy.

Trung tâm ngày sống trong Dòng Cát Minh mà mọi sự khác đều quy về đó, là việc cử hành Thánh Thể. Áp ngày hoàn tất hy sinh đổ máu trên thập giá, trong buổi tiệc ly Chúa Kitô đã lập, hy tế không đổ máu của Thánh Thể. Toàn thắng thời gian và không gian, Ngài muốn bằng cách ấy, cho hiện diện qua các thế kỷ và trong mọi nơi trên địa cầu hy tế cứu độ độc nhất của Ngài. Ở mỗi Thánh Lễ, người Kitô hữu ngày nay – cũng như Đức Mẹ và thánh Gioan ngày xưa – đứng dưới chân thập giá, được Bửu Huyết Chúa chạm đến để thay hình đổi dạng. Khi cùng với linh mục chúng ta dâng lên Chúa Cha của lễ không tỳ ố, chúng ta hiến dâng bản thân làm “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Lời chuyển cầu và cuộc hiến dâng của chúng ta bao trùm Giáo Hội và toàn thế giới, lúc đó được lôi cuốn vào Mầu Nhiệm Chúa Kitô. Thánh Thể, Bánh được bẻ ra cho sự sống thế giới, luôn luôn hoàn thành trong chúng ta tình hiệp nhất với Thiên Chúa và với anh em chúng ta.

Nhờ đến gần Chúa, chúng ta ý thức mãnh liệt hơn về tội lỗi của mình, về sự thất tín cá nhân, ngược với tình yêu và cản trở “việc hiểu biết” Chúa Kitô. Thánh Gioan nói: “Phàm ai phạm tội thì đã không thấy Đức Giêsu, và cũng chẳng biết Người” (1Ga 3,6) Do đó mà ta có nhu cầu sâu xa được Bửu Huyết Chúa Kitô thanh tẩy trong bí tích hoà giải: mỗi lần, bí tích này hoán cải và tái tạo con người đúng theo những nhu cầu của họ lúc đó, làm cho họ trở thành một hữu thể “mới mẻ” (AM. Roguet).

Kinh thần vụ điều tiết và thánh hóa diễn tiến thời gian trong ngày, trong tuần, trong năm – không chỉ là kinh nguyện của con người mà còn là lời cầu nguyện của Giáo Hội nữa, chính lời cầu nguyện của Chúa Kitô mang lấy lời cầu vụng về của chúng ta. “Trong sự hài hòa của tình thuận hòa anh em, do bởi chính sự hiệp nhất của anh em, anh em bắt đúng cung giọng của Thiên Chúa và anh em hết thảy sẽ đồng thanh cất tiếng hát bởi miệng Đức Giêsu – Kitô, những lời ngợi ca Chúa Cha”. Lời này rất chí lý của thánh Inhaxiô Antiokia, cũng khẳng định đặc tính hiệp nhất của lời cầu nguyện cộng đoàn. Lời cầu nguyện này giống như  “hiện thân của lời cầu nguyện nội tâm”, giúp toàn thể con người tán dương Thiên Chúa. Đồng thời, thần vụ là cầu nguyện cá vị, vì các thánh vịnh, phong phú tuyệt vời, diễn tả các tâm tình của lòng con người: như vậy, đối với mỗi người, lần lượt sáng lên, những gì làm cho họ rung động lúc này đây: cậy trông hoặc đau buồn, vui mừng hoặc sợ hãi, tin tưởng hoặc khiêm tốn mến yêu.

Để sốt sắng đi vào đời sống phụng vụ, cần hiểu biết sâu sắc về Thánh Kinh. Luật Dòng Cát Minh truyền dạy các tu sĩ phải thường xuyên học hỏi Thánh Kinh mà họ “phải suy gẫm ngày đêm”; và Thánh Kinh “phải ở trong lòng họ”. Lời Chúa không có gì là sách vở cả, mà là một cuộc nhập thể của Ngôi Lời, “nơi” Đức Kitô hiện diện sống động. Thánh Têrêsa Avila ưa thích đọc các bản văn Thánh Kinh, nhất là Tin Mừng khiến tâm hồn người dễ tập trung hơn tất cả các sách được soạn thảo thật thông thái (CP 21). Trong phòng của người, thánh Gioan Thánh Giá, hai ba sách đạo đức, và quyển Thánh Kinh mà người luôn đọc và suy gẫm, và các văn phẩm của  người kết đầy những lời  trích dẫn Kinh Thánh. Vào cuối đời, thánh Têrêsa Lisieux viết: “Tất cả các sách đều khiến tôi khô khan… Trong nỗi bất lực này, Thánh Kinh (nhất là Tin Mừng) và sách Gương Chúa Giêsu đến cứu giúp tôi; trong các sách này tôi tìm được một của ăn vững chắc rất tinh tuyền” (MA 208). Qua lời “sống động và muôn thuở của Ngài” (1Pr 1,23), Thiên Chúa nói với chúng ta cách luôn luôn mới mẻ, cho chúng ta khám phá những nét của gương mặt Ngài, và mặc khải cho chúng ta tình yêu vô biên và lân tuất của Ngài đối với chúng ta.

  1. Nguyện ngắm hoặc tâm nguyện.

Chương này sẽ đặc biệt dựa theo thánh Têrêsa Avila; dưới ảnh hưởng các chỗ ở trong “Lâu Đài Nội Tâm” của người, người đã trao lại cho chúng ta một giáo huấn cụ thể, sống động và thâm thúy về nguyện ngắm và những sự phát triển của nó. Thánh nữ mô tả kinh nghiệm bản thân người. Nhưng theo lời này của Carl Rogers, những gì riêng tư nhất cũng đồng thời phổ biến nhất, những ai cảm thấy được thu hút theo hình thức cầu nguyện này sẽ có ít nhiều nhận ra mình nơi đây.

Thánh Têrêsa xem linh hồn như một lâu đài toàn một khối kim cương, trong đó có nhiều chỗ ở. Một khối kim cương duy nhất…, nhiều chỗ ở… Linh hồn là một và đồng thời họp bởi nhiều thành phần khác nhau. Nó là toàn bộ lâu đài, tất cả các chỗ ở. Những hình ảnh này diễn tả đúng đắn tính đồng thời nghịch lý của tất cả những gì có nơi chúng ta, từ cái cao cả nhất đến cái thấp hèn nhất; tính đồng thời này độc nhất am hợp với thực tại con người chúng ta.

Các thánh, những con người rất thực tế, biết rõ điều này, nên dù đã được kết hợp với Chúa, họ vẫn tự xưng mình là kẻ tội lỗi. Không chút quá đáng nào cả! (LD VII,4). Làm sao hiểu được những chỗ ở khác nhau đến thế ? Dường như vị cải tổ Dòng Cát Minh cho hiểu rằng đó là những cách đa dạng để nguyện ngắm; nguyện ngắm là cuộc tiếp xúc thân mật (với Thiên Chúa), trong đó ta thường được đối thoại song phương với Đấng ta biết là yêu thương mình” (VE 8). Thánh Têrêsa nhận thấy rằng, khi nói về cầu nguyện nội tâm, người ta thường chỉ nói đến những gì chúng ta có thể tự mình làm đươc, rất ít giải thích điều Thiên Chúa thể hiện (LD 12). Trái lại, người sẽ nói đặc biệt về công cuộc Thiên Chúa làm vì Ngài yêu thương ta trước (1Ga 4,10), và không vì thế mà bỏ qua cố gắng của con người.

Cửa lâu đài.

Làm sao đi vào lâu đài là chúng ta đây, mặc dù đôi khi chúng ta không ở đó ? Cánh cửa, trong đó ta đi vào, là nguyện ngắm (LD 11), nhưng Thiên Chúa phải ban nhưng không cho chúng ta chìa khóa, tức là sự thu hút. Vì cầu nguyện nội tâm là “đàm thoại” giữa Thiên Chúa và con người, nên trước hết, những kẻ nói chuyện phải hiện diện   với nhau. Thiên Chúa bao giờ cũng hiện diện rồi, vì Ngài cư ngụ nơi chúng ta (Ga 14, 23; LD 12). Còn chúng ta phải học biết có mặt tại đây, sống ở đây chứ không phải ở chỗ khác, “trong một giây phút hiện tại vĩnh viễn… không trước không sau” (ET La 174). Trong giây phút hiện tại này là bí tích thánh ý Thiên Chúa ( cha de Caussade), ta phải hy sinh mọi sự cho nó. Thánh Têrêsa thốt lên: “Chị em có biết thế nào là một con người thiêng liêng thực sự không ? Đó là làm nô lệ Thiên Chúa: những kẻ nô lệ được đóng dấu của Ngài tức là thập giá, vì họ đã dâng cho Ngài tự do của họ để Ngài có thể bán họ làm nô lệ cho cả thiên hạ, như bản thân Ngài đã làm vậy” (LD VII 4).

Để hiện diện được với sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta phải tìm lại sự thống nhất con người của chúng ta, theo quan niệm của Thánh Kinh: tìm lại được ý nghĩa của thân xác chúng ta với tư cách là hợp nhất không thể phân chia được, với linh hồn và tinh thần và cũng với hai yếu tố này phải được thấm nhuần Chúa Thánh Thần mà nó là đền thờ (1Cr 6, 19). Thân xác chúng ta là nơi ở cụ thể của sự hiện diện Thiên Chúa và lời cầu nguyện của chúng ta. Nếu bỏ qua nó đi, thì một cách nào đó, nguyện ngắm tan biến và bị phân tán, trừ khi chính Thiên Chúa thu hút sự chú ý của chúng ta.

Khẩu nguyện và suy gẫm.

Sau khi qua ngưỡng cửa của lâu đài, linh hồn bắt đầu hồi tâm (LD1 1). Trước hết, rất thường là chẳng có gì xảy ra cả. Thánh Gioan Thánh Gía khuyên thế này: “Cứ gọi đi bằng cách đọc sách và bạn sẽ tìm thấy bằng cách suy gẫm,  hãy gọi đi bằng cách cầu nguyện và người ta sẽ mở cho bạn bằng chiêm niệm” (Châm ngôn 20). Vậy là phải đọc sách, đặc biệt là Kinh Thánh, đọc chậm rãi và sâu sắc, nhất là “lắng nghe”, vì qua Thánh Kinh, Thiên Chúa nói riêng với mỗi người. Ta cũng có thể dựa trên khẩu nguyện một cách sốt sắng, có thể giúp ích rất nhiều (CP 27), với điều kiện là tập trung chúng trên điều ta nói hoặc trên Đấng ta thưa chuyện. Dần dần việc đọc sách và khẩu nguyện đưa đến suy gẫm. Đây là nhìn và lắng nghe Chúa Kitô để học biết Ngài, quay về với Thân Mẫu Ngài hoặc một vị thánh ta kính mến, nghĩ đến Thiên Chúa hiện diện nơi chúng ta, suy nghĩ về những mầu nhiệm của đức tin. Rồi, có thể đối chiếu những khám phá của chúng ta với đời sống cụ thể của mình, rồi từ từ hướng về việc hoán cải con tim và tư tưởng mà thánh Phaolô đã nhắc đến” (Ep. 4, 23).

Sau đó, Thiên Chúa bắt đầu gọi linh hồn qua trung gian những lời nói của bạn bè, những sách đọc được, những biến cố đau thương mà Ngài soi sáng cho linh hồn (LD II 1), thường bị cám dỗ và chia trí, linh hồn chống trả bằng cầu nguyện. “Chúng ta phải làm việc để đạt đến vinh quang!” (LDII 1), và thánh Gioan Thánh Giá căn dặn rời khỏi nơi có cám dỗ bằng cách tức khắc nâng lòng lên với Thiên Chúa. Nhiều lần linh hồn sẽ gặp khô khan, và bất lực lúc cầu nguyện, để có thể trở nên khiêm tốn và từ bỏ mình. Lúc ấy, Chúa ban cho linh hồn được bình an và thuận theo ý Chúa (LD III 2). Cho đến đó, được Chúa nâng đỡ, con người tự sức mình mà tiến bước.Vả lại, suốt hành trình thiêng liêng, ta phải trở về với khẩu nguyện và suy gẫm khi ta cảm thấy trống rỗng; không bao giờ ở trần thế này, hoàn toàn loại bỏ cố gắng cá nhân để tìm kiếm Thiên Chúa.

Nguyện gẫm hồi tâm và an tĩnh. Từ nay, Thiên Chúa sẽ dần dần lấy sáng kiến và việc cầu nguyện của chúng ta. Cho đến nay, ta cảm thấy Chúa Kitô như là một nhân vật bên ngoài chúng ta, hơi xa lạ và “không có thật”, và Thiên Chúa Ba Ngôi như là một hệ tuyệt đối không xác định, trừu tượng. Nhưng có điều gì đó sẽ thay đổi. Thánh Gioan Thánh Giá đã xác định rõ phần mở đầu cho việc Thiên Chúa hằng sống thâm nhập vào cuộc đời chúng ta: bước chuyển từ suy gẫm đến chiêm niệm, trong đó tác động của Thiên Chúa chiếm ưu thế. Ba dấu hiệu cho thấy rằng việc cầu nguyện của chúng ta sắp biến đổi. Linh hồn “không thể nào suy gẫm và lý luận với trí tưởng tượng nữa… linh hồn không còn chút hướng chiều nào về việc áp dụng lý luận cho những sự vật riêng lẻ… và ưa thích ở một mình, say sưa chú ý đến Thiên Chúa, mà không suy xét gì đặc biệt, trong bình an nội tâm và tĩnh lặng.” (MC II 13).

Mọi sự sẽ đơn giản hóa và chính Thiên Chúa sẽ can thiệp trong cầu nguyện. Giống như bằng tiếng huýt gió của mục đồng, Ngài gọi về với Ngài các giác quan và quan năng của linh hồn, và linh hồn được tĩnh lặng, có khuynh hướng tìm kiếm Thiên Chúa nơi chính mình (LD IV 3). Chúa “muốn ban ơn của Ngài khi Ngài muốn, và như Ngài muốn cho ai tùy ý” (LD IV 1). Sau đó, sẽ ban cho con người ơn cầu nguyện nội tâm mà sức mình, họ không đạt đến được. Thiên Chúa kết hợp với Ngài ý chí, ước muốn, trái tim của con người, trong lúc trí tưởng tượng và trí hiểu theo đuổi trò chơi của chúng (LD IV 2). Khi Thiên Chúa ban ơn này, nước của cầu nguyện “chảy từ thâm tâm chúng ta với một sự bình an, yên tĩnh,  ngọt ngào vô cùng” (LD IV 2). Lúc đó Đấng Tạo Hóa mở rộng linh hồn để nó đón nhận ơn Chúa dồi dào hơn, đức tin của họ cũng trở nên sống động hơn, và linh hồn ít sợ thập giá hơn, biết rằng nếu vì mến Chúa mà linh hồn đón nhận thập giá, Ngài sẽ ban cho linh hồn ơn kiên nhẫn chịu đựng.

Thánh Têrêsa Lisieux diễn tả kinh nghiệm của mình như sau: “Đối với tôi cầu nguyện là sự hứng khởi của cái nhìn đơn sơ hướng về Trời, đó là một tiếng kêu tri ân và yêu mến giữa cơn thử thách cũng như giữa niềm vui; cuối cùng đó là một điều lớn lao, siêu nhiên làm giãn nở linh hồn tôi và kết hợp tôi với Chúa Giêsu” (MA 290).

Nguyện ngắm kết hợp.

Nơi các chỗ ở thứ năm, Thiên Chúa chiếm lấy trọn vẹn linh hồn, trói các quan năng trong một thời gian ngắn. Lúc đó chúng như ngủ thiếp đi. Linh hồn chỉ còn một ý chí hoàn toàn suy phục. Khi linh hồn đã quy tụ trong thống nhất tất cả các năng khiếu của mình, Chúa kết hợp mật thiết với linh hồn, và cho nó xác tín tuyệt đối rằng “mình ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở nơi mình” (LD VI). Chính Ngài đưa và đặt chúng ta vào trung tâm linh hồn mình nơi Ngài ngự: nơi “hầm rượu ẩn kín” (Ct 2,4) là nguyện ngắm kết hợp (LD VI ).

Lúc đó chính Đức Giêsu – Kitô trở nên chỗ ở của chúng ta. Ngài cũng cho chúng ta “làm việc để xây dựng ngôi nhà đó nữa… nhưng không phải bằng cách lấy đi hoặc dâng cho Thiên Chúa, mà là bằng cách cất đi chính mình đối với bản thân” (LD V 2); nhờ bỏ mình, cầu nguyện nội tâm, vâng phục, chúng ta phải cho đi toàn thân mình, để xây dựng ngôi nhà ấy – như con tằm nhả tơ để “dệt” nên kén nhỏ của nó vậy. Hơn bao giờ hết, linh hồn quyết định thực hành mọi sự trong thánh ý Thiên Chúa. Lúc bấy giờ, Ngài cho thoáng khí và, trong những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, Ngài tỏ cho linh hồn biết Ngài là ai” (LD I 4). Về phía ma quỷ, nó dùng hết sức lực miệt mài chống lại linh hồn, vì không có chốn hoang địa xa xôi hẻo lánh đến mấy mà nó không vào được. Để quyến rũ linh hồn, nó biến thành thiên thần sáng láng (2Cr 11, 14), cám dỗ linh hồn dưới chiêu bài sự thiện.

Cầu nguyện được Thiên Chúa chi phối và hoà hợp ý chí. (Đính hôn thiêng liêng).

Các chỗ ở thứ sáu mang đặc điểm đau khổ và ân sủng ngày càng lớn. Chính “dưới cây thập giá mà Chúa sẽ đính hôn với linh hồn” (SS 29), bằng cách đổ tràn trên linh hồn những ân huệ rất cao quí (LD VI 4). Bỗng chốc, Chúa “thức tỉnh” linh hồn để gây cho nó một vết thương tuyệt diệu, như thể một tia lửa bắn ra từ lò lửa cháy rực là Thiên Chúa (LD VI 2). Ngài còn “chạm đến nó” nơi trung tâm sâu thẳm nhất, để truyền đạt một sự hiểu biết cao cả và một lòng mến hăng say đến nỗi linh hồn cảm nghiệm nơi mình một chút gì đó của Người Yêu (CS 8).   Chúa cho linh hồn nghe những tiếng nói nội tâm hữu hiệu tuyệt vời, những lời ánh sáng soi chiếu trên một chân lý đức tin hoặc một hành động phải làm, lời biến đổi tác động nơi linh hồn điều được diễn tả trong những lời ấy (LD VI 3; MC II 28…). Bỗng nhiên, Ngài chiếm lấy linh hồn bằng những sự ngất trí, xuất thần, mà vẫn cất đi khỏi linh hồn mọi cảm giác bên trong và bên ngoài (LD VI 4), tự thông truyền cho linh hồn bằng những thị kiến tưởng tượng, tức là những hình ảnh nội tâm (LD VI 9), và những “thị kiến trí thức”, không có hình ảnh, chỉ là chắc chắn tuyệt đối về một sự hiện diện thôi (LD VI 8).

Linh hồn hoàn toàn dâng cho Thiên Chúa, không trừ điều gì cả, “đến nỗi ngay cả những chuyển động đầu tiên cũng không chống lại những gì là ý Chúa muốn nữa” (CS 29). Như thánh Maxime hiển tu nói: “Con người hoàn hảo theo sự thiện tức khắc, cách hồn nhiên; người ấy vượt lên mọi sự lựa chọn, mọi ưa thích hơn, giống như Thiên Chúa, Đấng không lựa chọn. Người ấy chỉ còn một việc là yêu mến thôi” (CS 20). Đức Kitô biến đổi linh hồn theo hình ảnh của Ngài, nên gọi nó là em gái và hiền thê (Ct 5,1). Từ nay, Chúa Thánh Thần làm chủ linh hồn ấy vì Ngài là sự sống của nó (VF III). Qua mọi sự, vui buồn, sướng khổ, đêm tối và ánh sáng. Nhân tính thánh thiện của Đức Kitô vẫn là con đường (LD VI 7).

Kết hiệp vĩnh viễn (hôn phối thiêng liêng và thơ ấu thiêng liêng).

Thiên Chúa đưa linh hồn vào trong chính chỗ ở của Ngài, chỗ ở thứ bảy; tắt thở, linh hồn chết trong một niềm vui khôn tả vì Đức Giêsu – Kitô đã trở nên sự sống của nó. Cái chết của linh hồn biến thành sự sống của Thiên Chúa” (VF II 6). Tỏ mình cho linh hồn bằng hình ảnh nội tâm rực rỡ, Đức Kitô kết hợp với linh hồn bằng hôn phối thiêng liêng (LD VII 2). Nếu “trong việc đính hôn chỉ có một tiếng “xin vâng” và một ý muốn duy nhất của đôi bên…, thì trong hôn phối có thêm… sự kết hợp giữa hai người nữa” (VF III 3). Công việc kết hợp này, từ nay thường xuyên, – mặc dù cường độ thay đổi – được cả Ba Ngôi Chí Thánh thể hiện trong một “thị kiến” trí thức, không hình dáng và không hình ảnh, Ba Ngôi tự biểu lộ trong linh hồn, như trong một vực thẳm, Ba Ngôi phân biệt nhau, tuy nhiên vẫn là một Thiên Chúa độc nhất (LD VII 1). Và thánh Gioan Thánh Giá khẳng định: “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cùng nhau thông truyền cho linh hồn… nơi đó, Ba Ngôi là ánh sáng, lửa mến cho nó”(VF III 5).

Hơn nữa: được kết hợp với Ngôi Lời, con người trở thành con cái trong Chúa Con, có thể nói được là đi vào bên trong tương quan với Ba Ngôi (VF II 1–3). Từ nay một mình Chúa Thánh Thần điều động người ấy trong tất cả những gì họ làm, khiến họ thực sự là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14; VF II 6). Từ nay linh hồn không còn phải bước đi nữa, bởi vì Thiên Chúa ẵm nó trên tay. Nó không còn nhìn đường đi, và không còn nhìn thấy mình tiến bước nữa. Nó dán mắt nơi Thiên Chúa, Đấng thu hút nó sâu xa trong Chúa Thánh Thần, làm nó say mê trong tình yêu (VF III 3; IV 6). Ơn dưỡng tử đã lãnh nhận được trong bí tích Thánh Tẩy, đã được phát triển sung mãn. Linh hồn có thể “kính mến Thiên Chúa như chính mình được yêu thương, bởi vì có kính mến Thiên Chúa với chính ý chí của Ngài, thì Ngài sẽ yêu thương nó trong cùng một tình yêu, là Chúa Thánh Thần” (CS 38). Thần Khí đã làm cho nên đồng hình đồng dạng với cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô, lôi cuốn linh hồn được kết hợp với Ngài, vào những chiều sâu khôn tả của Chúa Cha. Linh hồn “trao chính Thiên Chúa cho Thiên Chúa trong Thiên Chúa” (VF III 5), và tình yêu mà nó dâng lên Chúa Cha trong Chúa Con lại là chính Chúa Thánh Thần. Cuộc trao đổi này trong sự mới mẻ đời đời của nó – vì không có gì tĩnh cả – sẽ không chấm dứt nữa, nhưng sẽ tăng trưởng mãi cho đến cuộc gặp gỡ không màn che, được thể hiện vào giờ chết mở ra trong vinh quang. Sự nghiệp của các vị tiến sĩ Dòng Cát Minh mang một chiều kích cách chung gợi lên đoạn kết sách Khải Huyền: “Thần Khí và Tân nương nói: Xin Ngài ngự đến! Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền. Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (KH 22, 17-20).

  1. b) Đời sống tông đồ

“Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh nung nấu con” (1V 19,10). Dòng Cát Minh đã biến tiếng kêu này của vị ngôn sứ tại núi Horeb, thành châm ngôn của mình. Vì việc chiêm niệm mà không bốc lửa nhiệt tình tông đồ thì sẽ có nguy cơ tìm kiếm chính mình thôi. Thánh Têrêsa Avila đã hiểu rõ điều này qua kinh nghiệm thiêng liêng của người. Bàn về những ơn thần nhiệm và nhất là về xuất thần và ngất trí, người viết: “Tôi nghĩ rằng chính từ đó mà những ước muốn vô biên cám dỗ các linh hồn phải phát xuất, cũng như ước muốn góp phần nào cho Thiên Chúa được tôn vinh xứng danh Ngài” (RT 54). Chính từ việc chiêm niệm của thánh nữ mà đã nẩy sinh việc cải tổ Dòng Cát Minh và chính để giúp Giáo Hội đang bị xâu xé, và để cứu rỗi các linh hồn, mà người đã nhân lên các đan viện của người (LF 1.2). Thánh Têrêsa nhắc nhở con cái của người ưu tư tông đồ này bằng những lời nóng bỏng: “Tim tôi tan vỡ khi nhìn thấy bao nhiêu linh hồn bị hư nát… Tôi không còn muốn nhìn thấy mỗi ngày nhiều linh hồn lạc lối thêm nữa. Hỡi các chị em của tôi trong Chúa Kitô, chị em hãy giúp tôi khẩn nài Chúa để cho được điều ấy: chính vì mục đích này mà Ngài đã quy tụ chị em nơi đây; ơn gọi của chị em là ở đó: đó là công việc của chị em; đó phải là đối tượng những ước muốn của chị em, nước mắt của chị em, lời cầu khẩn của chị em!” (CP 1).

Đời sống Dòng Cát Minh là một cuộc sống trong Giáo Hội, với Giáo Hội cho Giáo Hội – Giáo Hội, trong cõi vô hình, bao trùm toàn thế giới, một cái nhìn tổng quát, duy nhất  tuy giữ được cảm quan về trần thế và những việc trần thế, đâm rễ sâu trong các thực tại vĩnh cửu, vượt lên trên mọi giới hạn trần gian, mới có thể cho đời sống thánh hiến về chiêm niệm ý nghĩa sung mãn của nó. Tu sĩ, nữ đan sĩ, chỉ rút lui khỏi thế gian để được gặp nó cách phổ quát hơn và lôi cuốn nó trong Thiên Chúa.

. Vô tư

Muốn trở nên phong nhiêu, việc tìm kiếm kết hợp với Thiên Chúa phải vô tư. Trước hết, là đáp trả tình yêu với tình yêu nhưng không, vô biên của Chúa đã yêu ta trước. Thánh Jean Climaque nói: “Phúc thay kẻ say mê Thiên Chúa, không kém kẻ si tình đối với người yêu của họ”. Vấn đề là không tính toán, phó nộp mình cho thánh ý Chúa được biểu hiện bất cứ cách nào – dù qua lời nói bí nhiệm của Thần Khí  nơi thâm tâm, qua tiếng gọi của người đồng loại nào, hoặc qua các biến cố cụ thể đánh dấu từng chặng trong đời chúng ta – vì “yêu mến không phải là cảm mến nhiều về mặt thiêng liêng, nhưng là quyết tâm làm hài lòng Thiên Chúa trong mọi sự” (LD IV 1). Vậy đừng có gì làm yếu đi hoặc ít hơn nữa,   bẻ gẫy sức cố gắng hướng về một tiếng “xin vâng” ngày  càng hồn nhiên – cũng có thể mang hình thức một tiếng “không” triệt để nữa. Tình yêu không bao giờ nói: “Vậy là đủ rồi!”(Jean de St. Samson).

Nếu đàng khác, đời sống chiêm niệm chỉ giới hạn trong việc thủ đắc một “sự hoàn hảo cá nhân” không chắc gì được, nếu nó không phải là thông cảm với mọi nỗi thống khổ của thế giới và tham gia vào mầu nhiệm cứu độ thế giới, nó chỉ là một ảo tưởng thôi. Để trở thành cầu nguyện, ta phải không đòi cho mình gì cả. Vấn đề là trở thành giữa lòng vũ trụ một sự hiện diện phụng thờ, ca ngợi, tạ ơn, chuyển cầu giống như một chất men ẩn kín, có khả năng biến đổi thế giới. Séraphim de Sarov thường nói: “Bạn hãy có được bình an nội tâm, và hàng nghìn người quanh bạn sẽ được cứu độ”. Nhưng giá phải trả cho những “cuộc biến đổi” này là sự khó nghèo thiêng liêng dưới hình thức tuyệt đối nhất của nó tức là quân bình. Chỉ mình thái độ này giúp chúng ta “hiện hữu”, và chúng ta có thể giúp Giáo Hội và thế giới nhiều bởi con  người của chúng ta hơn là bởi những gì chúng ta làm.

. Việc tông đồ ẩn kín

Việc tông đồ chính yếu của Dòng Cát Minh “ẩn giấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa” (Cl 3,3). Nhưng nơi “giấu kín” này mở ra những không gian vô tận. Việc tông đồ của tình thương,  của hiến dâng và cầu nguyện không có biên giới nào cả, ngoài vực thẳm không đáy của tình yêu lân tuất trong đó nó muốn lôi cuốn toàn thể vũ trụ. Niềm khao khát mãnh liệt của thánh Têrêsa Lisieux như thế đó, người muốn thể hiện trong đời mình tất cả những ơn gọi, tất cả các công cuộc của Giáo Hội. Chính thánh Phaolô cho người câu trả lời mang tính cách giải phóng. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, nguời khám phá ra sự so sánh của thân thể: “Ví như thân thể người ta gồm nhiều bộ phận, mà các bộ phận thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy” (1Cr 12,12).

Sau khi nhắc đến các đặc sủng, vị tông đồ tuyên dương “con đường trổi vượt hơn cả” (ICr 12,31), con đường tình yêu. Được Chúa Thánh Thần soi sáng, thánh nữ thốt lên: “Đức ái cho tôi chìa khóa ơn gọi của tôi, tôi hiểu rằng Giáo Hội có một Quả Tim và Quả Tim này bừng cháy lửa Mến… Tôi hiểu rằng Tình Yêu bao trùm tất cả các ơn gọi, rằng Tình Yêu là tất cả, rằng nó bao quát mọi thời đại và nơi chốn… tóm lại, có vĩnh cửu… ôi! lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con… cuối cùng con đã tìm ra ơn gọi của con rồi, ơn gọi của con là Tình Yêu… vâng, con đã tìm ra vị trí của con trong Giáo Hội… trong lòng Giáo Hội, mẹ con, con sẽ là Tình Yêu… như vậy con sẽ là tất cả (MA 229). Trái Tim của Giáo Hội thực sự là “nơi” của Dòng Cát Minh; nơi mà hoạt động của Dòng, thâu tóm trong tình yêu, trở nên phổ quát. Vì thánh Gioan Thánh Giá nói: “Một tia lửa tình yêu tinh tuyền này, quý báu trước mặt Thiên Chúa và ích lợi cho Giáo Hội hơn tất cả các công cuộc khác góp lại, mặc dù ta có vẻ không làm gì cả” (CS B29). Sự kiện Đức Kitô là một và không thể phân chia, lại bị chia rẽ nơi các chi thể của Ngài, sẽ không chịu nổi, và một lời van nài tha thiết dâng lên Thiên Chúa để cho lời nguyện của Đức Kitô được thể hiện: “Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy thế gian sẽ tin… Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một…” (Ga 17, 21-23).

“Đức Kitô được Chúa Cha sai đến là nguồn mạch và gương mẫu mọi việc tông đồ” (CC 80). Mọi việc tông đồ được phong phú hay không thì tùy thuộc việc kết hợp với Chúa Kitô: “Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15, 5).

Theo lời của thánh Gioan Kim Khẩu, các kitô hữu phải nhớ rằng: “Họ phải trả lẽ không những về đời sống cá nhân của mình, mà còn về tất cả thế giới nữa.”

. Đời sống tông đồ của tu sĩ Cát Minh.

Việc tông đồ ẩn kín và phổ quát chiếm ưu tiên đối với các nam tu sĩ cũng như các nữ đan sĩ Dòng Cát Minh. Nhưng khi canh tân Hội Dòng nam tu sĩ, thánh Têrêsa Avila đã muốn họ xả thân phục vụ Giáo Hội, bằng lời rao giảng và việc làm, sau khi được chuẩn bị nhờ học thần học và kinh nghiệm về đường lối của Thiên Chúa. Lúc ban đầu, thánh nữ đã nghĩ đến các nữ đan sĩ Cát Minh và muốn cho họ có những vị giải tội và linh hướng, sống cùng một tinh thần. Thăng tiến đời sống nội tâm và việc tôn sùng Đức Mẹ, đó là những mục tiêu đặc biệt của con cái thánh Têrêsa. Thừa tác vụ của họ được thực hiện đặc biệt đối với các nữ đan sĩ Cát Minh, các linh mục, các hội Dòng và tu hội đời thuộc Dòng Cát Minh và các hội đoàn Áo Đức Mẹ, không quên các “trường học nguyện ngắm”, nhất là cho giáo dân, và những sinh hoạt văn hóa đa dạng. Tu sĩ Cát Minh Têrêsa sẽ đặc biệt là vị linh hướng và giảng tĩnh tâm. Thừa tác vụ giáo xứ chỉ được nhận trong những trường hợp đặc biệt thôi.

Trái lại các tu sĩ Cát Minh theo luật cũ cởi mở hầu như đối với mọi hình thức tông đồ hiện đại. Cả hai nhánh Dòng Cát Minh cũng đều chăm lo việc tông đồ truyền giáo.

. Chứng tá kín đáo của các nữ đan sĩ Cát Minh

Các nữ đan sĩ Cát Minh, trước hết là “chứng nhân về Đấng vô hình”. Nhưng hoạt động phổ quát và khó nhận ra chỉ được chính thức hóa nhờ đặc biệt và cụ thể đáp lại, trong lòng mến Đức Kitô, những tiếng gọi từ bên ngoài. Việc tông đồ của các nữ đan sĩ Cát Minh  (và các nam tu sĩ Cát Minh) đã bắt đầu bên trong cộng đoàn rồi: “Chị em sẽ sinh nhiều hoa trái, nếu nhờ đức khiêm nhượng, lòng tận tụy, đức bác ái dịu dàng của chị em, với chị em trong cộng đoàn, lòng mến của chị em đối với Chúa, chị em làm cho hết thảy những người ấy bừng cháy lửa thiêng này và liên lỷ khuyến khích họ trên con đường nhân đức!” (LD VII 4). Vị cải tổ Dòng Cát Minh cũng muốn con cái mình truyền đạt điều gì về kinh nghiệm thiêng liêng cho những người đến thăm các chị (VE 21), mặc dù vẫn giữ sự kín đáo cần thiết. “ Việc nguyện ngắm của chị em phải nhằm lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn. Mục đích chắc chắn kinh nguyện của chị em là như thế, mà chị em không tìm mọi cách có thể được để làm việc ấy thì thật là lạ lùng” (CP 20). Têrêsa Avila, Têrêsa Lisieux và Elisabét Chúa Ba Ngôi đã nêu cho chúng ta một tấm gương sống động bởi những tương quan của các ngài với những người bên ngoài, hoặc tại nhà khách hoặc bằng thư từ.

. Trong lòng Giáo Hội.

Như chúng tôi đã nói, mọi lời cầu nguyện đều mang tính vũ trụ và cộng đoàn cả, không phải tôi cầu nguyện nhưng chúng ta cầu nguyện cho nhauu. Chính trong tinh thần “Giáo Hội” này mà ta cố gắng tìm cách để sống trong Dòng Cát Minh. Nguời tu sĩ biết rằng mình không bao giờ ở một mình, nhưng luôn luôn chìm vào trong mầu nhiệm các thánh thông công. Ơn được ban cho tu sĩ đồng thời lại chan hòa trong Giáo Hội. Tu sĩ không phải một mình được Bửu Huyết Đức Kitô trong bí tích hòa giải thanh tẩy; tu sĩ không một mình được biến đổi lúc Truyền Phép và được thu hút trong Đức Kitô Phục Sinh trong hiệp lễ. Giáo Hội và toàn thể nhân loại đều có mặt và “cùng đón nhận”, trong sự hiệp nhất mầu nhiệm do Đức Kitô và Chúa Thánh Thần tạo nên, “hai bàn tay này” của Chúa Cha mà Ngài luôn luôn dùng cùng một lúc trong tất cả công trình tạo dựng, cứu độ và thánh hóa (Thánh Irénée  Lyon).

Và nếu một con người được tình yêu biến đổi hoàn toàn trong Thiên Chúa, người ấy sẽ được ban một sự hiểu biết khác, rất “thực nghiệm” về nhiệm thể Chúa Kitô ở một chiều sâu khôn tả: “Những người nam và người nữ này, Giáo Hội sở hữu và cầm giữ họ, nhưng đến lượt mình, họ sở hữu và cầm giữ toàn thể Giáo Hội trong chính lòng họ” (Hồng Y Journet). Nơi họ chính toàn thể Giáo Hội trình diện trước Thiên Chúa để kêu cầu ơn Cứu Độ đến trên thế giới, hôm nay, nơi họ, Thiên Chúa làm cho Giáo Hội và thế giới tràn ngập tình yêu  của Ngài, và chính đặc biệt nơi họ mà, qua các thời đại, Giáo Hội vẫn là Hiền Thê được tha thứ,  tinh tuyền và nhiệt thành của Đức Kitô.

Thánh André đảo Crêta đã ca ngợi mầu nhiệm của Giáo Hội trong bài hát tuyệt vời của người, mầu nhiệm Giáo Hội vừa là mầu nhiệm Chúa Kitô bị đóng đinh Thập Giá – Phục Sinh, và của Thần Khí Ngài: chính từ trong lòng đất mà Đấng Hóa Công đã đến cứu chuộc chúng ta.

Ngài đã muốn chịu đóng đinh trên cây gỗ đau thương,

Và tức khắc Địa Đàng bị đánh mất, đã tìm lại được.

Xin cho Nước và Máu  tuôn trào,

Từ cạnh sườn Chúa bị đâm thâu

Trở nên Phép Rửa cho con,

Một của uống cứu độ.

Rồi, liên kết đời sống bí tích với suy gẫm Thánh Kinh, một cuộc nhập thể khác của Ngôi Lời, người nói tiếp:

Như vậy được xức bằng lời sự sống của Chúa như một thứ dầu thơm:

Và đón nhận những lời ấy như một thức uống,

ôi lạy Ngôi Lời, con sẽ được thanh tẩy gấp đôi,

Giáo Hội là chén thánh đón nhận

tia bửu huyết từ cạnh sườn Chúa ban sự sống,

gấp đôi và một dòng duy nhất vừa hiểu biết và tha thứ,

Hình ảnh của hai giao ước

Tân và cựu kết hợp làm một.

Thay lời kết luận.

Lạy Thiên Chúa của con, Ba Ngôi mà con tôn thờ,

Xin Chúa ban cho con ơn được quên mình hoàn toàn

                               chỉ tìm kiếm một mình Chúa

                               chỉ ước muốn một mình Chúa thôi

Để suốt đời con được xả thân cho anh em con.

ôi, lạy Chúa Giêsu,

Xin Chúa ban cho con được mang Chúa trong lòng

                               như Mẹ Chí thánh của Thiên Chúa

Xin Chúa ban cho con được sinh hạ Chúa

                               bằng cách làm chứng về Chúa.

Xin ban cho con được đi theo Chúa

                               trong thời thơ ấu

                               và cảnh khó nghèo của Chúa.

Xin Chúa ban cho con được đi theo Chúa

                               bằng cách phó nộp mình

                               cho Thần Khí lên tiếng trong con.

Xin Chúa ban cho con được nối gót Chúa

                               trong khinh dể và nhạo báng.

Xin Chúa ban cho con được bước theo Chúa

                               cho đến chết trên Thập giá.

Xin Chúa ban cho con được theo Chúa

                               đến cuộc Phục Sinh.

Xin Chúa ban cho con được mất hút

                               để trở thành Chúa

                                                            Amen.

Tải về file pdf: Đêm tối và ngọn lửa.pdf
Tải về file Word: Đêm tối và ngọn lửa.doc

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *