2024Advent_W4_VT 2024Advent_W4_VT (1) 2024Advent_W4_VT
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca
(1,39-45)
Ngày ấy, Ma-ri-a chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giu-đê-a. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà I-Sa-ve. Và khi bà I-sa-ve nghe lời chào của Ma-ri-a, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà I-sa-ve được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng : » Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà đươc chúc phúc ! Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi ? Vì này, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện ».
Bà đã tin
Nếu Ma-ri-a vội vã đến nhà người chị họ I-sa-ve, đó là vì bà được đánh động bởi một niềm tin kèm theo một đức ái vẹn tuyền nhất, đức ái, như thánh Phao-lô đã nói, « phục vụ và không tìm tư lợi » (1 Co 13, 4.5) … Người yêu mến dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, tự quên mình và phục vụ tha nhân. Theo gương của Chúa Ki-tô, người Tôi Tớ của Tình Yêu Chúa Cha cho mọi người. Tất cả chúng ta được mời gọi sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm của một Thiên Chúa muốn ngự trong chúng ta và cũng lôi kéo chúng ta trên những con đường đức ái. Vì một người càng gần Chúa, thì càng gần mọi người. Ma-ri-a là Mẹ chúng ta trong ân sủng và muốn sinh chúng ta trong đời sống của Chúa Thánh Thần mà Mẹ là một chứng nhân cao siêu. Ma-ri-a chia sẻ với I-sa-ve niềm vui trong lòng Mẹ để niềm vui đó cũng là niềm vui của chúng ta và để chúng ta có thể hợp với Mẹ trong bài ca chúc tụng, Magnificat ; để chúng ta cũng có thể « tán dương Thiên Chúa », nghĩa là, để Chúa có vị trí trong đời chúng ta, để Chúa bước vào thời gian và sinh hoạt hằng ngày của chúng ta. Cầu nguyện đích thực là cầu nguyện « như Ma-ri-a » vì đón nhận tất cả từ Thiên Chúa để đưa đến thế giới cách tốt hơn. Theo gương Ma-ri-a, chúng ta phải sinh ra Đức Ki-tô cho thời đại chúng ta. Thánh dòng Cát-Minh Titus Brandsma, được Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô phong thánh năm 2022, đã viết về truyền thống Cát-Minh : « Mục tiêu đời sống chúng ta là Ma-ri-a : để Đức Ki-tô sinh ra trong chúng ta và sinh ra từ chúng ta ».
Theo trường phái Tê-rê-sa : Ma-ri-a, người đầu tiên lên đường
Tê-rê-sa đã luôn luôn xem Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, không chỉ là như người Mẹ của Trời, nhưng cũng là một gương mẫu đức tin và dâng hiến cho Thiên Chúa, một gương mẫu của tấm lòng lắng nghe một Thiên Chúa đã đến với bà trong đêm tối đức tin và đón nhận Chúa, với tất cả quyền năng của trí thông minh và ý chí, với tất cả năng lực của linh hồn bà. Bà là đáp ứng của chúng ta với ân ban của Thiên Chúa. Định nghĩa tốt nhất của nhân đức đối thần này có vẻ được đề cập trong Hiến chế Dei Verbum của Công đồng Va-ti-can II : « Theo lệnh của Thiên Chúa về « sự vâng phục của đức tin » (Rm 16, 26 ; cf. Rm 1, 5 ; 2 Co 10, 5- 6), con người hoàn toàn phó thác một cách tự do cho Thiên Chúa trong « sự kính dâng hoàn toàn trí thông minh và ý chí cho Thiên Chúa tự mặc khải « trong sự tán đồng tự nguyện. Để hiện hữu, đức tin này cần có ân sủng ân cần và bổ trợ của Thiên Chúa, cũng như những trợ giúp nội tâm của Chúa Thánh Thần chạm đến cõi lòng và hướng nó về Thiên Chúa, mở mắt tinh thần và cho « mọi người niềm vui nhẹ nhàng để chấp nhận và tin tưởng ở chân lý” » (DV, n° 5). Một định nghĩa tuyệt vời phối hợp sự tán đồng tự nguyện của con người vào ơn ban của Thiên Chúa được mặc khải qua ân sủng chu đáo, công việc của Chúa Thánh Thần. Ma-ri-a là mẫu gương không thể lẫn tránh của việc tiếp đón Thiên Chúa trong đức tin.
Theo trường phái trên, chúng ta khám phá đời sống đức tin của chúng ta khởi sự và trước hết là sự đáp ứng của chúng ta, đồng thuận với ân sủng, thụ cảm phong phú với tác động của Chúa Thánh Thần trong chúng ta, thụ cảm tùy thuộc vào chiều sâu của thiên chức chung của Ki-tô hữu từ lúc được rửa tội. Nữ Vương và vẻ đẹp của Cát-Minh, nhưng hơn nữa là Mẹ và Người dạy đời sống thiêng liêng, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a dạy chúng ta sống như Mẹ trong việc đón nhận Chúa Thánh Thần, là ơn Chúa ban, và để chúng ta đáp ứng bằng cách tự do dâng hiến đời chúng ta để chúc tụng vinh quang Chúa Cha cứu chuộc trần gian. Quả thật, « tình yêu Thiên Chúa — nói cách khác : tình Chúa yêu chúng ta — đã được đổ tràn trong lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần đã được ban cho chúng ta » (Rm 5,5). Tình yêu mà chúng ta dâng cho Chúa chỉ có thể là tình yêu mà Chúa đã ban cho chúng ta. Đó là một tình yêu nhưng không, không lệ thuộc những công trạng có trước của chúng ta, nhưng chỉ đặt nền tảng trên lòng thương xót của một Thiên Chúa trung tín với chính Người. Thiên Chúa không yêu chúng ta vì chúng ta đáng yêu, chúng ta đáng yêu vì Chúa yêu chúng ta ! Thế là Chúa yêu chúng ta vì chính Chúa, vì đó là sứ điệp lớn của Tê-rê-sa và cũng là Tin Mừng của Phúc Âm.
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, như một gương soi phóng đại của đời sống thiêng liêng củachúng ta, ban cho chúng ta một gương mẫu tuyệt vời của ân sủng trên thụ tạo nhân loại, đến nỗi một tác giả đã có thể nói « Ma-ri-a đại diện cho nhân loại » (Gertrude Von Le Fort, Người Phụ nữ vĩnh cửu, Đức Tin sống động, Cerf, tr. 45).Còn nói gì nữa ? Sự khởi xướng của tình yêu Thiên Chúa, chính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã cảm nhận đầu tiên, và với một cường độ và sự ứng đáp của Mẹ, hơn nữa, Mẹ đã hoàn tất không chỉ « ơn gọi của người phụ » (như trên), mà còn cho mọi Ki-tô hữu khả năng bắt chước Mẹ, vì đầu tiên đó là một công trình của Thiên Chúa và một tấm lòng sẵn sàng. Vì Mẹ được đầy ấp ân sủng Thiên Chúa — Kékaritoméné, tiếng Hy lạp, nên Mẹ Ma-ri-a có thể hát khen tạ ơn Thiên Chúa đã cúi xuống Mẹ. Vì Mẹ chịu ơn Chúa hơn mọi thụ tạo nhân loại khác, và vì Mẹ luôn sống khiêm nhường thẳm sâu, nên Mẹ luôn sống trong tâm tình tạ ơn về những kỳ công Thiên Chúa Ít-ra-en thực hiện trong Mẹ.
Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội vì Mẹ được gìn giữ — bằng ân sủng đặc biệt củaThiên Chúa để Ngôi Hai Nhập thể —, khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng. Chúa đã « tha hết trước cho Mẹ » để lặp lại lời của Tê-rê-sa trong Bản thảo của chị : « Tôi nhìn nhận rằng nếu không có Người(Thiên Chúa), tôi đã có thể té ngã nặng như thánh Ma-đa-lê-na và lời sâu thẳm của Chúa nói với ông Si-mon vang dội nhẹ nhàng trong lòng tôi … Tôi biết : “ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47), nhưng tôi cũng biết Chúa Giê-su tha cho tôi nhiều hơn thánh Ma-đa-lê-na, vì Chúa đã tha cho tôi trước, để tránh cho tôi vấp ngã ». Và lúc đó Tê-rê-sa tự sánh với một trẻ em và Người Cha bác sĩ đã tránh em bé bị ngã khi gạt hòn đá trên đường thay vì băng bó vết thương của trẻ sau khi nó ngã. « Chắc chắn, người con, đối tượng của sự dịu dàng dự phòng trước, KHÔNG BIẾT rằng sự khốn khổ đến từ người cha sẽ làm chứng cho sự biết ơn của trẻ và sẽ yêu cha ít hơn khi được cha chữa lành…nhưng khi trẻ biết sự nguy hiểm mới vừa được thoát, thì chẳng lẽ trẻ không sẽ không yêu cha hơn sau ? Thực ra, chính tôi là đứa trẻ đó, đối tượng của tình yêu dự phòng của một người Cha không gửi Ngôi Lời của Người đến cứu chuộc những người công chính nhưng là những người tội lỗi » (Thủ bản A 38 v°).
Tất cả thiên tài của Tê-rê-sa bùng nổ trong vài hàng dưới dạng ngụ ngôn : Tất cả chúng ta đều là con cái của lòng Cha trên trời thương xót, cho dù chúng ta có những tước vị khác nhau. Tê-rê-sa biết mình được máu của Đức Ki-tô cứu chuộc, như Ma-ri-a Ma-đa-lê-na và những tội nhân lớn nhất ; chị biết rằng không phải những sức lực riêng gìn giữ chị khỏi mọi tội trọng, nhưng chỉ Tình Yêu của Chúa là Cha giàu lòng thương xót con cái ở trần gian. Đức Trinh Nữ Ma-ri-a không tránh khỏi lòng thương xót yêu kiều đó: « Chính vì lòng Thương xót tinh tuyền mà Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được thụ thai, và Mẹ đã nhận được hồng ân đầu tiên đó mà không ai sánh được », như Cha Marie-Eugène đã nói (Cát-Minh, 1979/1, Ma-ria, Mẹ của người nghèo, tr. 47). Cha trên trời đã không chỉ để Mẹ có thể phạm những tội trọng, nhưng Người đã miễn trước TẤT CẢ cho Mẹ, nên Mẹ đã được tạo dựng mà không mắc tội tổ tông, vì thế Mẹ là đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Như thế Ma-ri-a , hơn mọi thụ tạo khác, là Đấng sống lệ thuộc vào tình yêu với Chúa Cha trong sự khiêm nhường thẳm sâu và nhận từ Chúa Cha cuộc sống ân sủng siêu nhiên. Điều Chúa chờ mong nơi chúng ta, điều mà Người thiếu một cách nào đó, là chúng ta dâng cho Người sự hư không nhỏ bé của chúng ta để Người có thể « đổ tràn những làn sóng âu yếm vô biên được nhốt kín trong Người », theo từ ngữ của chính Tê- rê-sa (Hành vi dâng hiến cho Tình Yêu thương xót).
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a dạy chúng ta, như Mẹ đã biết dạy cho em gái nhỏ Tê-rê-sa, rằng cuộc đời và sự thánh thiện ki-tô giáo không phải là vấn đề tích tụ những điểm tốt hoặc những việc phải làm. Nhưng đó là sự cởi mở của toàn bản ngã chúng ta, một sự ưng thuận sâu thẳm vào công trình ân sủng trong chúng ta ; điều cần là chúng ta tự hiến như chúng ta đang là cho Tình yêu thương xót. Không phải là làm cho ta được yêu, nhưng là để Chúa yêu ta, để được tình yêu dồi dào và thương xót của Chúa yêu ta , Chúa không muốn ta tự soi xét, nhưng phó thác hoàn toàn vào lòng thương xót của Chúa để ta được Chúa đổi mới và nâng lên.
Điều Chúa mong đợi nơi chúng ta, là chúng ta ưng thuận trong toàn bản ngã của ta– trong trạng thái của tấm lòng hoàn toàn khó nghèo và trông cậy đến táo bạo vào lòng nhân lành của Chúa Cha — vào sự tái sinh trong Chúa Thánh Thần, để ta ưng thuận được thiêu đốt bởi lửa tình yêu « lửa biết đổi mọi sự trong chính lửa », để ta ưng thuận trong niềm tin để tự hiến cho Tình yêu thương xót đến sự hiệp thông vào thánh giá Chúa Giê-su. Khi nói « xin vâng » với sự ra đời của Ngôi Lời trong Mình, Ma-ri-a đã đặt hoàn toàn con người mình, cả thân xác và linh hồn, để Chúa sử dụng. Sự dâng hiến của niềm tin kéo theo sự tự hiến…đến chết, và chết trên thập giá. Chúng ta có thể bắt chước Mẹ Ma-ri-a trong thái độ tin tưởng của Mẹ. Mẹ là mẫu gương của niềm tin và sự tự hiến.
Vì Mẹ đã nói xin vâng trong sự vâng phục của tấm lòng người con, nên Ma-ri-a đã hiểu sự viên mãn của hiệp thông vào thánh ý và sự hiện diện của Thiên Chúa. Và Ma-ri-a đã trở thành Mẹ của Giáo hội. Nói cách khác, Ma-ri-a là một trợ tá rất cần thiết để giúp mỗi người chúng ta đón nhận đời sống thần linh và làm cho đời sống sinh nhiều hoa quả. Đặc biệt khi hợp tác với Đức Ki-tô để cứu độ anh em. Như Ma-ri-a , qua đức tin và sự hiệp thông với các thánh, ki-tô hữu sinh ra nhiều thành viên mới của Đức Kitô. Thánh Phao-lô ý thức điều đó khi viết cho các tín hữu Ga-lát: « Những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Ki-tô được thành hình nơi anh em » (Gl 4, 19).
« Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, được người ta cho rằng khó đạt tới, chúng ta phải chứng minh rằng chúng ta có thể bắt chước Mẹ », như thánh Tê-rê-sa Hài-đồngGiê-su đã nói trong các Cuộc Trò chuyện Cuối cùng của chị. Quả thật, Đức Trinh Nữ không phải là một hình ảnh xa lạ và không tiếp cận được ; trái lại, chiếm ngắm và bắt chước Ma-ri-a , là đáp ứng với ơn gọi rửa tội của chúng ta trong sự tìm kiếm kết hợp với Đức Ki-tô và sự phong phú thiêng liêng để cứu độ nhân loại. Công đồng Va-ti-can II còn mời gọi chúng ta chiêm ngắm và bắt chước người mà « trong cuộc sống đã là gương mẫu của tình mẫu tử thúc đẩy mọi người cộng tác vào sứ vụ truyền giáo của Giáo hội để tái sinh nhân loại » (Ánh sáng Muôn dân, số 65). Như thánh Giu-se, chồng bà Ma-ri-a, chúng ta đừng ngại đón Đức Ma-ri-a về nhà chúng ta (Mt 1, 20). Mẹ là một đảm bảo chắc chắn cho tính xác thực của đời sống thiêng liêng Ki-tô hữu. Như Tê-rê-sa đã hiểu rõ, đây là một hồng ân lớn lao hơn khi có ngài là Mẹ hơn là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội : « Điều mà Rất Thánh Trinh Nữ có nhiều hơn chúng ta, đó là Mẹ không thể phạm tội, Mẹ khỏi tội tổ tông, và mặt khác, Mẹ có ít cơ hội hơn chúng ta, vì Mẹ không có Một Thánh Trinh Nữ để yêu mến; và đó là một sự êm ái hơn nữa cho chúng ta, và Mẹ thiếu sự êm ái đó! (Sổ Vàng ngày 21.8.1897).
Những đường hướng cho tuần này:
Tôi có mối quan hệ của người con đối với Rất Thánh Trinh Nữ để tôi có thể nói như Tê-rê-sa : « Thánh Trinh Nữ, không có thánh Trinh Nữ để yêu thương, Mẹ ít hạnh phúc hơn chúng ta .» không? … Tôi có đặt Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất xa tôi không ? Hoặc tôi có khả năng nhận biết Mẹ rất gần tôi, mặc dù tôi nhận biết phẩm cách tột bậc của Mẹ, Mẹ là hồng ân tôi được làm con? Hơn nữa, tôi có khả năng xem Mẹ là mẫu gương đặc biệt cho niềm tin và đời sống thiêng liêng của tôi không?
Cha Jean-Gabriel Rueg,
ocd (Toulouse)