MỘT CHỨNG NHÂN MẠNH MẼ CỦA NIỀM HY VỌNG KITÔ GIÁO:
TÊRÊSA CHÚA GIÊSU[1]
Tomás Álvarez, OCD
Chat GPT dịch – Nguyễn Quách Tiến, OCD hiệu đính
“Hy vọng” là điều kiện của mọi đời sống Kitô hữu, không kém phần thiết yếu như “tin” hay “yêu”. Kitô hữu “sống bởi đức tin”, mang tình yêu “được đổ tràn trong lòng”, và đã là “một người được cứu trong niềm hy vọng”.
Bình thường, mỗi Kitô hữu phải là chứng nhân trước mặt người đời về “niềm hy vọng vinh quang” mà chúng ta có trong Đức Kitô Giêsu. Tuy nhiên khi còn lữ hành trên mặt đất và trong dòng lịch sử, cũng là điều bình thường khi người Kitô hữu trải qua – như Thánh Phaolô Tông đồ – những khủng hoảng và thăng trầm trên hành trình của mình (2 Cr 1, 8-10), hoặc chia sẻ với con người cùng thời nỗi cắn rứt của bi quan, sầu muộn và tuyệt vọng. Đôi khi, trong một số chu kỳ lịch sử, họ giống như những người không tin hay những người không có hy vọng (1 Tx 4, 12). Chính trong cơn sóng dữ ấy, chứng nhân mạnh mẽ của niềm hy vọng Kitô giáo mới có ý nghĩa đặc biệt. Như các ngôn sứ Cựu Ước xuất hiện từ giữa dân đang khủng hoảng, thì trong lịch sử Giáo Hội cũng thường xuyên xuất hiện – cách gián đoạn nhưng đều đặn – hai loại chứng nhân đặc biệt của hy vọng: các vị tử đạo và các vị thần bí.
Vị tử đạo làm chứng cho sự xác tín của mình về các thiện ích vượt trên cái chết, mà không khước từ cuộc sống hay những thiện ích hiện tại mà mình hy sinh vì các thiện ích kia. Khi chết, vị tử đạo làm chứng, như Thánh Stêphanô, rằng “người thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7, 55).
Vị thần bí, là người cảm nghiệm cách đặc biệt ơn cứu độ hiện tại như khúc dạo đầu của sự viên mãn tương lai, làm chứng điều đó cách ngôn sứ, bằng ngôn từ nhân loại đầy sức mạnh và hiệu quả cho những ai không có đặc sủng này để nếm cảm trực tiếp các thực tại cứu độ.
Têrêsa Chúa Giêsu thuộc về nhóm thứ hai. Bà là một phụ nữ, và là một nhà thần bí. Bà không sở hữu một nền “thần học về niềm hy vọng” theo nghĩa học thuật, nhưng bà đã cảm nghiệm niềm hạnh phúc của sự chờ đợi và đã làm chứng dồi dào cho điều đó qua các tác phẩm. Đến mức, dù không chủ ý, bà đã tự trình bày mình như một chứng nhân của niềm vui, lạc quan, “sự kiên nhẫn” (hypomoné) và sức căng cánh chung hướng về các thiện ích tương lai, đồng thời vẫn sống trọn vẹn sự hiện diện trong các thực tại trần thế và nhân loại.
Trong số các bài thơ bà sáng tác để ca ngợi niềm vui của “bữa tiệc nội tâm” ấy, một trong những bài được biết đến nhiều nhất lại chính là bài diễn tả cách nghịch lý sức căng cánh chung của niềm hy vọng:
“Vivo sin vivir en mí
y tan alta vida espero,
que muero porque no muero.”
(Tôi sống mà chẳng sống trong tôi,
mong đợi một đời sống cao siêu,
nên chết đi vì không thể chết)
Ba câu thơ này diễn tả cách thi vị ba yếu tố chính của niềm hy vọng:
- Niềm vui sống, nhưng là sống với sự sống mới, không còn trong tôi nữa mà trong Đức Kitô.
- Sự chờ đợi một sự sống cao hơn.
- Cái chết – nhưng được cảm nhận như chiếc cầu nối giữa hai đời sống.
Bài thơ gồm tám khổ nối tiếp nhau khai triển ba yếu tố trên. Toàn bộ bài thơ triển nở như một bài thánh ca hy vọng, xuất phát từ kinh nghiệm sâu xa nhất của sự sống, có khả năng cảm nhận sự sống vĩnh cửu ẩn chứa trong hiện tại, và chuyển hoá cái chết thành chiến thắng cứu độ trọn vẹn. Bài thơ được sáng tác khoảng năm 1571, và chẳng bao lâu sau đã đến tay thánh Gioan Thánh Giá. Ngài cũng bị cuốn hút bởi niềm hạnh phúc của sự chờ đợi này và đã sáng tác những khổ thơ khác, tuyệt đẹp về thi ca, để chú giải ba câu đầu – có chút sửa đổi: “vivo sin vivir en mí / y de tal manera espero / que muero porque no muero”.
Có lẽ, nếu bài thơ của Têrêsa đã có được tiếng vang lớn trong giới phê bình văn học và sự phổ biến rộng rãi trong dân gian (nhất là trong thế giới nói tiếng Tây Ban Nha), là do một yếu tố mang tính “thế tục” thoạt tiên nghe có vẻ lạ lùng. Cả điệp khúc mở đầu lẫn tám khổ thơ tiếp theo đều là “phiên bản hướng về Thiên Chúa” (versión a lo divino) của những bài coplas dân gian trước đó, vốn nói về tình yêu đôi lứa. Nghĩa là, bài thơ – dù được dệt nên bởi nội dung thần học và ngọn lửa thi ca mãnh liệt – lại bắt nguồn từ truyền thống thi ca trữ tình dân gian. Nó có họ hàng gần với “thi ca của con tim và của những người đang yêu”, nên được diễn tả bằng những âm điệu dễ hiểu, tuy cao hơn nhiều nhưng vẫn hoà điệu với những cung bậc của tình yêu nhân loại.
Tuy nhiên, mối liên hệ văn chương ấy – vốn thường được các nhà phê bình văn học nhắc đến khi nói về hai vị thánh thi sĩ, Thánh Têrêsa và Thánh Gioan Thánh Giá – chỉ là thứ yếu. Cội rễ sâu xa của bài thơ của Têrêsa nằm ở hai tầng chồng lên nhau: a) tầng kinh nghiệm tôn giáo, và
b) tầng Lời Kinh Thánh.
- a) Kinh nghiệm tôn giáo
Bài thơ được sáng tác để chú giải một kinh nghiệm thần bí xảy đến với tác giả vào một ngày lễ Phục Sinh năm 1571, tại Salamanca. Chính bà kể lại trong Bản Tường Trình số 15. Sau khi đã trải qua những ngày cuối của Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh trong tình trạng khô khan nặng nề, không sao hoà nhập được vào đời sống và tâm tình của phụng vụ, thì hôm ấy, trong giờ giải trí buổi chiều, một tập sinh trẻ – sơ Isabel de Jesús – đã hát trong vườn mấy câu (coplas) về tình yêu và hy vọng:
“Véante mis ojos, / dulce Jesús bueno;
véante mis ojos, / muérame yo luego.”
(Xin mắt con được thấy Ngài, / Giêsu hiền lành dịu ngọt;
xin mắt con được thấy Ngài, / để con chết ngay sau đó.)
Lời ca và giai điệu ấy chạm đúng chủ đề của “ước muốn” – vốn là mô tuýp của phụng vụ ngày lễ: “ước muốn được thấy” Đấng Phục Sinh, gắn với một chủ đề khác cũng thuộc mùa Phục Sinh: “chết để được thấy”. Bài hát ấy như một mồi lửa kích hoạt trong lòng Mẹ Têrêsa, khiến bà bùng lên trong một cơn xuất thần. Tác động của cơn xuất thần ấy còn kéo dài đến khi bà ghi lại câu chuyện: “Ngay cả khi đang viết điều này hôm nay, con vẫn còn đau đớn” (ở đây, “đau đớn” theo cách bà hiểu là “bị đâm thấu” tâm hồn bởi lòng khao khát).
Không lâu sau đó, để diễn tả bằng thi ca và cho chính mình “lễ hội nội tâm” ấy của những khao khát và cơn xuất thần – bà đã sáng tác bài thơ “Vivo sin vivir en mí… / muero porque no muero”, mang dấu ấn rõ rệt của một “chứng từ” thuần khiết và trực tiếp. Chính Têrêsa đã từng viết về bản thân rằng bà “không phải là nhà thơ”, nhưng trong cơn ngây ngất thần bí và dưới sức ép của một kinh nghiệm khôn tả, “đôi khi bỗng dưng tôi làm nên những khổ thơ rất sâu đậm…, không do trí óc tôi tạo ra, mà để tận hưởng hơn niềm vinh quang đến từ một nỗi đau ngọt ngào như thế, tôi than thở với Thiên Chúa về điều đó” (Tự Thuật 16,4).
Như thế, toàn bộ bài thơ vừa là một định nghĩa sống động về niềm hy vọng Kitô giáo (“vivo… / esperando vida más alta / hasta morir por revivir” – tôi sống… / chờ đợi một đời sống cao hơn / cho đến chết để được sống lại), vừa là một bản chứng từ trung thực của một Kitô hữu cảm nhận sâu sắc sức kéo của sự chờ đợi và sức hút không cưỡng nổi của đích điểm cuộc đời – không phải chỉ là “thế giới bên kia”, nhưng là “Đức Kitô, niềm hy vọng của chúng ta”, Đấng Phục Sinh của lễ Phục Sinh.
- b) Lời Kinh Thánh
Nhưng bên dưới kinh nghiệm thần nhiệm của Têrêsa còn có một tầng khác nâng đỡ: đó là Lời Kinh Thánh và kinh nghiệm đã được Thánh Phaolô Tông đồ sống và ghi lại trong chính đời mình.
Têrêsa, từ lâu trước biến cố Phục Sinh và bài thơ tại Salamanca, đã sống trong một sự hoà điệu kỳ lạ với kinh nghiệm về Chúa Kitô và về thời cánh chung của Thánh Phaolô. Phaolô cũng đã từng trải qua cảm giác “sống mà không sống trong tôi”; “Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Và ngài cũng đã từng cảm thấy một khao khát mãnh liệt về cuộc quang lâm – cuộc gặp gỡ dứt khoát với Đức Kitô (Pl 1, 23). Têrêsa đã làm chứng cho sự đồng điệu với kinh nghiệm kép ấy của thánh Tông đồ ngay từ những tác phẩm đầu tiên của mình. (Cần nhấn mạnh hai từ: “kinh nghiệm” và “đồng điệu”). Những tác phẩm đầu tiên này được viết vào khoảng mười năm trước biến cố và bài thơ ở Salamanca: tức là bài thơ thuộc năm 1571; còn những bản tường trình tự thuật đầu tiên thuộc các năm 1561–1562. Dưới đây chỉ trích lại hai “chứng từ”:
“Có những ngày tôi nhớ vô số lần điều mà Thánh Phaolô nói – dĩ nhiên chắc chắn điều ấy không xảy ra trong tôi cách trọn vẹn – rằng dường như tôi không sống, không nói, không có ý muốn riêng, nhưng có Đấng ngự trong tôi điều khiển và ban sức mạnh, và tôi hầu như ở ngoài bản thân mình; và như thế, cuộc sống là một nỗi đau rất lớn. Điều lớn lao nhất tôi có thể dâng lên Chúa như một việc phục vụ, là bởi việc bị xa cách Ngài là rất đau đớn, nên vì yêu Ngài, tôi vẫn muốn sống. Tôi ước ao rằng điều này đi kèm với nhiều lao nhọc và bách hại…” (Bản Tường Trình 3, 10; khoảng năm 1563).
Và khi đang viết nên dòng tường thuật đời mình: “Con đang viết và dường như, với sự trợ giúp và lòng thương xót của Chúa, con có thể nói như Thánh Phaolô, dù không đạt tới mức hoàn thiện như thế: ‘con không còn sống nữa, nhưng chính Ngài, Đấng Tạo Hóa của con, sống trong con’, vì đã nhiều năm nay, theo con có thể hiểu, Ngài vẫn nắm tay con, và con thấy mình có những ước muốn, quyết tâm, và ở mức nào đó đã được thử thách qua kinh nghiệm trong nhiều năm qua, để không làm điều gì ngược lại ý muốn của Ngài, dù là điều rất nhỏ – mặc dù chắc chắn con vẫn xúc phạm Ngài nhiều mà không nhận ra. Và con cũng thấy rằng sẽ không có gì vì tình yêu Ngài mà con lại không quyết tâm thực hiện; và trong một số việc, chính Ngài đã giúp con hoàn tất; con không muốn thế gian và bất cứ gì thuộc về nó, và dường như không có gì đem lại cho con niềm vui nếu không đến từ Ngài; còn lại tất cả chỉ như một thập giá nặng nề. Con có thể lầm, và như thế nghĩa là con chưa thực sự có điều mình vừa nói; nhưng Ngài biết, lạy Chúa của con, rằng theo như con hiểu, con không nói dối; và con vẫn lo sợ – rất có lý – rằng Ngài sẽ bỏ con; vì con biết rõ sức yếu và sự bất toàn của mình khi Chúa không luôn ban sức mạnh và giúp con không lìa bỏ Ngài; và xin Ngài cho con đừng bị bỏ rơi ngay cả lúc này, dù tất cả những điều trên đây có thể chỉ là ảo tưởng của con” (Tự Thuật 6, 9)[2].
Tuy nhiên, sự đồng điệu được kinh nghiệm mạnh mẽ nhất giữa kinh nghiệm của người Ki-tô hữu và kinh nghiệm của Thánh Phaolô là một “vòm căng” nối từ “sống trong Đức Kitô” cho đến “cuộc gặp gỡ dứt khoát với Ngài”. Đó chính là điều Phaolô diễn tả trong thư gửi tín hữu Philípphê (1, 23) như một sự dao động nội tâm giữa hai ước muốn cực điểm: ước muốn được chết để gặp Đức Kitô trong sự viên mãn – điều này rõ ràng là ưu việt hơn rất nhiều – và ước muốn được sống để phục vụ anh em và Giáo Hội, điều cuối cùng lại được chọn. Đây chính là hai chiều kích của niềm hy vọng: căng về phía cuộc quang lâm, nhưng vẫn hiện diện với dòng lịch sử và hành trình lữ hành.
Nơi Têrêsa Giêsu, kinh nghiệm hai cực này của Phaolô sẽ không còn là những khoảnh khắc lẻ tẻ, mà trở thành cấu trúc xuyên suốt đời bà. Để kể lại, cần quay lại điểm khởi đầu của “lời chứng” tự thuật ấy.
Tình trạng tiền đề của niềm hy vọng: Sự thờ ơ, cám dỗ và khó khăn chống lại niềm hy vọng Kitô giáo
Như chúng ta biết, đời sống Kitô hữu của Têrêsa đã trải qua một giai đoạn dài ban đầu với những bước ngoặt và thăng trầm. Để có thể đặt trọn niềm hy vọng nơi Thiên Chúa (Tự Thuật 8,12), bà đã phải mất nhiều năm chiến đấu cam go. Ở đây, chúng ta chỉ nêu bật những sợi dây trói buộc lớn nhất đã ngăn cản bà phát triển niềm hy vọng:
Thứ nhất, điều gần gũi và cụ thể nhất: thân xác của chính bà, thể chất và sự gắn bó với sự sống. Têrêsa là một phụ nữ có thân thể yếu đuối. Khi 23 tuổi, bà đã mắc một cơn bệnh hiểm nghèo, kèm theo những yếu tố nghiêm trọng để lại dấu ấn chấn thương và một kinh nghiệm về cái chết. Bà đã hôn mê sâu trong ba ngày, không có dấu hiệu sống. Ở tu viện, mộ của bà đã được chuẩn bị sẵn. Bà chỉ không bị chôn cất là nhờ sự phản đối quyết liệt của người cha. Sau cơn hôn mê sâu là chín tháng gần như liệt hoàn toàn, dù tinh thần vẫn tỉnh táo. Từ đó suốt đời, bà luôn có tinh thần mạnh mẽ nhưng thể xác và sức khỏe mong manh. Đặc biệt, bà bị ảnh hưởng tâm lý: mang nỗi sợ cái chết sâu đậm. Chính bà đã nhiều lần làm chứng về điều này: vì bệnh tim, “ngay cả ban ngày, nhiều khi tôi không dám ở một mình trong một căn phòng” (Tự Thuật 25, 14); “…cái chết, điều mà tôi luôn rất sợ” (Tự Thuật 38, 5). Vào cuối đời, bà sẽ viết một cách kín đáo cho một người thân tín: “con vẫn còn nhớ nỗi sợ mà trước đây con thường có đối với cái chết” (Thư gửi Cha Gracián, ngày 5.5.1580)[3].
Điều chúng ta quan tâm ở đây không phải là các hệ quả tâm–thể lý của điều đó, mà là dữ liệu thực tế: tính hiện thực và tính chân thực trong nhận thức về cái chết, vừa như một kinh nghiệm nhân loại vừa như một dự báo sinh học; và sự chống cự lại nó, cụ thể là ở “nỗi sợ”[4]. Trong tâm lý của Têrêsa, lúc ấy chưa có chỗ cho việc nhìn nhận cái chết đã được cứu chuộc và mang tính cứu độ, chưa thấy nó như một phần của tiến trình cứu rỗi. Nỗi sợ cái chết và nỗi sợ hỏa ngục là những trở ngại ghìm giữ bà, khiến niềm hy vọng chưa thể nở hoa.
Thứ hai, sự gắn bó với những gì thuộc trần gian. Têrêsa là một người cực kỳ nhạy cảm, như một ăng-ten luôn bắt được thông điệp từ sự vật và con người. Kinh nghiệm đầu tiên của bà khi còn bé là nhận ra tính chóng qua của mọi sự (“mọi sự sẽ qua”), và so sánh nó với sự vững bền của những gì không qua đi nhưng vĩnh cửu. Những gì từng là trí tuệ then chốt của triết gia Hy Lạp (“omnia fluunt” “panta rei”), Teresa định nghĩa là “sự thật khi bà còn là một đứa trẻ” (Tự Thuật 3, 4). Về sau, bà sẽ diễn đạt điều đó trong những câu thơ súc tích nổi tiếng:
“Nada te turbe,
todo se pasa,
Dios no se muda,
sólo Dios basta.”
(Đừng để điều gì làm bạn xao xuyến,
mọi sự sẽ qua đi,
Thiên Chúa không đổi thay,
chỉ một mình Thiên Chúa là đủ)
Và ở trung tâm bài thơ là hai khái niệm Kinh Thánh về niềm hy vọng: “kiên nhẫn” (hypomoné) và “sự chắc chắn” về việc thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa (“todo lo alcanza” – mọi sự sẽ đạt được).
Tuy nhiên, trong nhiều năm, Têrêsa đã sa vào cám dỗ của trần thế: để mình bị lôi cuốn và giữ chặt bởi nó, mắc kẹt trong mạng lưới của cái hiện tại hoặc cái bề ngoài. Trong một bản tự kiểm điểm, bà sẽ phân biệt ba giá trị có sức cám dỗ: “khoái lạc, tiền bạc và danh dự” (Tự Thuật 20, 26-28). Có vẻ bà không bị quyến rũ nhiều bởi hai điều đầu (khoái lạc và tiền bạc), nhưng lại rất khao khát điều thứ ba: danh dự xã hội. Cùng với đó là một cám dỗ khác: tình bạn và tình cảm nhân loại. Nhiều năm liền, Têrêsa đã sống trọn vẹn kinh nghiệm của các tình bạn nhân loại, bị ràng buộc và lệ thuộc vào đó. Nhưng bà nhận ra giới hạn của chúng rất muộn: tất cả bạn bè đều như “những que hương khô, bám vào thì chẳng có gì chắc chắn, vì khi gặp chút sức nặng của mâu thuẫn hay lời gièm pha, chúng sẽ gãy” (Bản Tường Trình 3, 1); rằng không có gì thực sự bền vững trong đời nếu không đạt tới sự chắc chắn rằng “Thiên Chúa là Đấng trung tín” (Tự Thuật 23, 15) và “niềm hy vọng nơi Ngài là sức mạnh của chúng ta” (Lâu Đài Nội Tâm III, 2, 13); cho đến sự xác tín rằng “trong Ngài, chúng ta có thể làm được mọi sự” (Tự Thuật 13, 3).
“Đức Kitô – niềm hy vọng của chúng ta” (Cl 1, 27)
Sự thờ ơ thiêng liêng, sự yếu đuối và do dự trong cách sống và trong việc gắn mình vào các thực tại trần thế, tự nó không loại trừ “niềm hy vọng” Kitô giáo. Nhưng nó làm suy yếu hoặc làm mất đi sức căng của nó. Niềm hy vọng Kitô giáo là sự căng giữa hiện tại và chung cuộc, giống như các dụ ngôn Tin Mừng về sự tỉnh thức: chờ đợi Chàng Rể giữa đêm khuya…
Nơi Têrêsa, bước chuyển từ sự thờ ơ sang sức căng được quyết định nhờ một yếu tố then chốt: Chàng Rể là Đức Kitô. Cũng như với Phaolô trên đường Đa-mát, với Têrêsa, ở một thời điểm xác định của hành trình – như bà kể lại trong Tự Thuật – đã xảy ra một “cuộc gặp gỡ” cá vị hay một kinh nghiệm mới và mạnh mẽ về mối tương quan với Đức Kitô. Điều này chạm đến chính cốt lõi đời sống Kitô hữu của bà: sự gắn kết hiện hữu của bà với Đấng Phục Sinh, với nhân tính thánh thiện của Người, với chính sự hiện diện của Ngài trong cuộc đời Têrêsa. Đối với bà, đây là một biến cố cụ thể và mang tính quyết định, như trường hợp của Thánh Phaolô. Bà đã kể lại biến cố này trong những trang trung tâm của cuốn Tự Thuật. Đó là đỉnh điểm, là ranh giới phân chia các dòng chảy trong ngọn núi cuộc đời bà.
Từ biến cố đó, sức căng của niềm hy vọng nơi bà bùng lên, với những nét rõ ràng: xác định được hai cực của đời mình – gắn bó với hiện tại và hướng tới chung cuộc siêu việt. Têrêsa chấm dứt tình trạng lập lờ, thiếu ổn định đối với các thực tại: từ nay, bà cảm thấy mình gắn chặt vào chúng, neo đậu trong đời sống và trong Hội Thánh, dấn thân vào công việc trần thế. Đồng thời, bà cũng bị lôi cuốn mạnh mẽ bởi sự vĩnh cửu; với trọng tâm là Đức Kitô – trung tâm quy tụ mọi sự: các thực tại, đời sống, con người, các giá trị trần thế, tình bạn, tri thức, vẻ đẹp…Chúng ta sẽ nêu bật những điểm thiết yếu nhất.
- a) Têrêsa trước thế lưỡng nan của Phaolô: “Tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em” (Pl 1,22-24)
Hai cực khiến Phaolô ở trong tình trạng căng thẳng là Đức Kitô và anh em mình: Quang lâm và phục vụ. Và sức căng ấy chạm trực tiếp đến chính đời sống của vị Tông đồ: ước muốn được tháo gỡ, hay được “lều thân xác” cất đi, để được hiện diện – trọn vẹn – với Chúa.
Đó cũng là thế lưỡng nan mà từ “cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Kitô”, đã chiếm lĩnh tâm hồn Têrêsa và định hình niềm hy vọng của bà: “vivo sin vivir en mí” – nghĩa là, bà đã sống trong Đức Kitô, nhưng chưa đến mức trọn vẹn đến nỗi không còn khao khát cuộc gặp gỡ hoàn toàn. Chỉ cần trích lại vài chứng từ của bà từ những bản tự thuật sớm nhất. “Cuộc gặp gỡ quyết định với Đức Kitô” – làm mốc cho chúng ta – xảy ra khi bà 45 tuổi (năm 1560). Những bản tường trình đầu tiên có niên đại 1561 và 1562. Đây là vài đoạn:
Trong bản viết đầu tiên – Bản Tường Trình cổ nhất – bà mô tả tình trạng nội tâm của mình và đến đoạn nói về ước muốn và hy vọng:
“…tôi cảm thấy những thôi thúc rất mạnh, với sự tan chảy vì Chúa, đến mức không tự chủ nổi. Tôi tưởng như mình sắp chết, và thế là tôi bật kêu lên, gọi Chúa, và điều này đến với tôi với một sức mạnh mãnh liệt… Đó là những cơn khắc khoải vì ‘không được sống’ và tưởng như mình đang sống, mà không thể làm gì để thay đổi, vì phương thế để được thấy Chúa chính là cái chết, và cái chết ấy tôi không thể tự ban cho mình.” “Tôi nghĩ rằng sợ cái chết là một điều vô lý” (Bản Tường Trình 1,3.18).
Đoạn thứ hai cho thấy bà đang bị nắm giữ bởi những ước muốn ấy, và chờ đợi biến cố kết thúc để được gặp gỡ chung cuộc:
“…Chúa bắt đầu cho tôi thấy rõ hơn rằng chính Ngài đang ở đó, tình yêu của tôi dành cho Ngài lớn dần đến mức tôi không hiểu ai đã đặt nó vào tôi, vì đó là điều hoàn toàn siêu nhiên, tôi cũng không tìm kiếm. Tôi thấy mình chết đi vì khao khát được thấy Thiên Chúa, và tôi không biết tìm sự sống này ở đâu nếu không phải qua cái chết. Tôi có những cơn thôi thúc mạnh mẽ của tình yêu này, tuy không khắc nghiệt như những lần khác tôi đã nói, cũng không mạnh bằng, nhưng tôi không biết làm gì; chẳng gì làm tôi thỏa mãn, chẳng gì chứa nổi tôi, chỉ cảm thấy như linh hồn tôi sắp bị giật ra khỏi thân xác. Ôi, công trình tuyệt diệu của Chúa! Ôi, cách thức tinh tế Ngài xử với tôi, kẻ tôi tớ khốn cùng! Ngài ẩn mình khỏi tôi và siết chặt tôi bằng tình yêu của Ngài, với một cái chết ngọt ngào đến nỗi linh hồn chẳng bao giờ muốn thoát ra khỏi nó” (Tự Thuật 29, 8).
Cũng là điều bình thường, từ trong sức căng ấy, bà gợi lại kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Khi ấy người ta cảm nhận rõ hơn tình trạng bị giam cầm mà chúng ta phải chịu với thân xác, và sự khốn khổ của cuộc sống. Người ta hiểu lý do Thánh Phaolô khẩn xin Thiên Chúa giải thoát mình khỏi tình trạng này. Họ kêu lên cùng Ngài. Họ xin Ngài ban tự do, như những lần khác, đến mức linh hồn dường như muốn thoát ra khỏi thân xác để tìm kiếm tự do này, nếu nó chưa được trao. Người ta thấy mình như bị bán ở một đất xa lạ…” (Tự Thuật 21, 6)[5].
- b) Chiến thắng của niềm hy vọng trước cái chết
Điều bình thường là trong động lực mới của niềm hy vọng, cái chết thay đổi ý nghĩa, và được chính niềm hy vọng đón nhận, cho đến khi nó được biến đổi hoàn toàn trong ý nghĩa cứu độ. Thánh Phaolô đã thách thức: “Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu?” (1 Cr 15, 55). Nơi Têrêsa, sự thay đổi này còn tác động cả trên bình diện tâm lý. Nỗi “sợ chết” xưa kia – vốn có ảnh hưởng cả về tâm–thể lý – đã được vượt qua dứt khoát. Đây là chứng từ rõ ràng nhất: “Tôi cũng gần như không còn sợ cái chết, điều mà tôi luôn rất sợ trước đây. Giờ đây, tôi thấy nó là điều hết sức dễ dàng đối với ai phục vụ Chúa, vì chỉ trong khoảnh khắc, linh hồn được giải thoát khỏi nhà tù này và được đặt trong sự nghỉ ngơi” (Tự Thuật 38, 5).
Lời tâm sự này được viết không muộn hơn năm 1565 (lần hiệu đính cuối của cuốn Tự Thuật), khi Têrêsa đã 50 tuổi. Mười hai năm sau, bà xác nhận rằng đó không phải là một sự giải thoát tạm thời, nhưng là vĩnh viễn: “Không còn một chút sợ hãi nào đối với cái chết, hơn cả khi phải chịu một cuộc xuất thần dịu ngọt” (Lâu Đài Nội Tâm VII, 3, 7)[6].
Với việc vượt qua nỗi sợ chết, nỗi “sợ hỏa ngục” cũng bị đánh bại: “Về phần sợ hỏa ngục, thì không còn nữa. Thỉnh thoảng, nỗi sợ mất Thiên Chúa có thể dâng lên mạnh mẽ, nhưng là rất hiếm. Toàn bộ nỗi sợ của họ là sợ rằng Thiên Chúa sẽ buông tay, để họ xúc phạm đến Ngài, và lại rơi vào tình trạng khốn cùng như đã từng ở vào một thời điểm nào đó; chứ họ không còn bận tâm về hình phạt hay vinh quang của riêng mình. Nếu họ ước muốn không phải ở lâu trong luyện ngục, thì đó là vì không muốn xa cách Thiên Chúa lâu, hơn là vì những hình phạt sẽ chịu” (Lâu Đài Nội Tâm VI, 7, 3)[7].
Như vậy, niềm hy vọng đã chiến thắng nỗi sợ chết và sợ hỏa ngục. Không lạ gì khi Têrêsa lại để cho mạch thơ trào ra và hát điều này:
«Cuán triste es, Dios mío, / la vida sin ti.
Ansiosa de verte, / deseo morir».
“Buồn thay, lạy Chúa của con, / đời sống không có Ngài.
Mong mỏi được thấy Ngài, / con khao khát chết đi.”
Hoặc mạnh mẽ hơn, qua những câu thơ mang âm hưởng Thánh Vịnh trong các Lời Kêu Gọi, vang vọng tiếng kêu của Phaolô: “Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu?” Têrêsa viết:
«¡Oh muerte muerte, no sé quién te teme,
pues está en ti la vida!»
“Ôi, cái chết, cái chết, con chẳng biết ai lại sợ ngươi,
bởi nơi ngươi lại chứa đựng sự sống!” (Lời Ta Thán 6, 2).
Kinh nghiệm mới này về cái chết, như chiếc nôi của sự sống mới, khiến Têrêsa dễ dàng xem nó là khúc dạo đầu cho lần “sinh nhật” thứ hai – dies natalis. Cũng như ở bình diện nhân loại, một người thường ghi nhớ ngày sinh nhật của mình, Têrêsa lại ghi trong sách nguyện một tờ giấy “mã hóa” bí ẩn về ngày bà sẽ qua đời – ngày “sinh nhật” khác của bà. Không hề mang tính bi quan hay ảm đạm, tất cả đều dưới dấu chỉ của sự sống và của Đức Kitô phục sinh. Bà giữ tờ giấy nhỏ này trong sách kinh phụng vụ của mình suốt 12 năm, nhưng không bao giờ tiết lộ ý nghĩa cho bất kỳ ai, dù là người thân thiết nhất (x. Bản Tường Trình 7).
Đó là một dạng “ghi nhớ” để giữ ngọn lửa hy vọng luôn cháy, vừa là nỗi nhớ, vừa là sự bảo đảm chắc chắn sẽ tới đích. Nó tập trung vào việc tưởng niệm đời sống trần thế của Chúa Giêsu – 33 năm lữ hành cùng chúng ta – và vào thực tại “sống trong Ngài”.
- c) Sự dấn thân vào những thực tại trần thế và tái định giá thời gian và những điều tạm thời
Nếu chỉ nhìn toàn bộ những điều trên qua lăng kính của tâm lý tự nhiên hay triết học nhân sinh, thì “lá số” khoa học của Têrêsa sẽ gần như chắc chắn báo trước một quỹ đạo tách rời khỏi trần thế: xa cách các thực tại, dửng dưng và tê liệt trước sự vật, trước cảnh quan nhân loại và Giáo Hội.
Nhưng lịch sử đời bà lại diễn ra hoàn toàn ngược lại. Đúng là có một khoảnh khắc đầu tiên, khi những gì thuộc thời gian và trần thế dường như mất đi sự gần gũi và chiều sâu: “Chúa đã ban cho tôi một cảm giác như mơ mộng trong đời sống, đến nỗi hầu như lúc nào tôi cũng cảm thấy mình đang mơ về những gì mình thấy; chẳng niềm vui hay nỗi buồn nào, dù lớn, tôi thấy ở trong mình. Nếu có điều gì đó khiến tôi xúc động, thì nó trôi qua nhanh đến mức tôi ngạc nhiên, và nó để lại cảm giác như một điều đã mơ…”. Trước đó, bà còn nói rõ rằng từ lâu mình cảm thấy như một người “đang nhìn từ trên cao…” (Tự Thuật 40, 22).
Tuy nhiên, đó chỉ là một khoảnh khắc thoáng qua trong nhịp thay đổi. Ngay sau đó, biến cố của nhân loại, của thời đại mình, trở nên khẩn thiết và thôi thúc đối với bà. Têrêsa sẽ không hát một bài ca vũ trụ như Thánh Phanxicô Assisi hay Thánh Gioan Thánh Giá, đơn giản vì bà nhạy cảm hơn nhiều với cảnh quan xã hội–nhân sinh hơn là cảnh quan vũ trụ. Chính thế giới của các mối tương quan, của con người, của những biến cố Châu Âu… mới kéo Têrêsa ra khỏi bức tường đan viện, để biến bà thành một người lữ hành và nhà sáng lập – một dạng “quý bà lang thang của Thiên Chúa”.
Điều tương tự cũng xảy ra với giá trị của “thời gian”. Thời gian – đúng là “trôi qua” – nhưng giờ đây lại trở thành đối với bà một giá trị cao như chính sự sống. Têrêsa đặc biệt đau đớn trước “thời gian đã mất”. Bà thưa với Chúa một lời nguyện – lời kêu gọi, xin Ngài – Đấng có thể làm mọi sự – trả lại cho bà: “Có lẽ tôi nói điều dại dột, vì người ta thường nói rằng thời gian đã mất thì không thể lấy lại được… Ôi, lạy Chúa, con nhìn nhận quyền năng cao cả của Ngài. Nếu Ngài là Đấng toàn năng – mà quả thật Ngài là thế – thì có gì là không thể đối với Đấng làm được mọi sự?… Xin Chúa khôi phục, lạy Chúa của con, khoảng thời gian đã mất, bằng cách ban cho con ân sủng ở hiện tại và tương lai, để con có thể ra trình diện Ngài trong y phục lễ cưới; vì nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm được” (Lời Ta Thán 4, 2).
- d) Trước hiện thực của đời sống nhân loại: phục vụ Kitô giáo
Ngay trong lời tóm lược ngắn gọn về đời mình, Thánh Phaolô đã cho thấy sự căng giữa hai cực của niềm hy vọng – điều tạm thời và điều vĩnh cửu – nhưng trên thực tế, cán cân nghiêng về phía hiện tại, như một sứ vụ phục vụ anh em: “Ở lại trong thân xác thì cần thiết hơn vì anh em. Và tôi biết chắc điều này: tôi sẽ ở lại và tiếp tục ở với tất cả anh em, để giúp anh em tiến bộ và được vui mừng trong đức tin…” (Pl 1, 24-25).
Điều tương tự sẽ xảy ra với Têrêsa, và một cách rất rõ ràng. Ai đọc các câu thơ của bà về “niềm khát khao được thấy Thiên Chúa”, hoặc nghe bà tâm sự trong các trang tự thuật về kinh nghiệm mới coi cái chết như một người bạn và chiếc nôi của sự sống (x. Đường Hoàn Thiện 19), có thể thoáng nghĩ rằng nhà thần nhiệm Kitô giáo này hẳn sẽ bị cuốn trọn vào khao khát cánh chung của cuộc Quang Lâm, và sẽ sống chỉ cho Thiên Chúa (soli Deo), bỏ mặc những chuyện trần thế. Nhưng thực tế lại trái ngược: trong niềm hy vọng của mình, điều trổi vượt sẽ là hypomoné, nghĩa là sự kiên nhẫn chờ đợi, để dấn thân vào phục vụ nơi trần thế.
Trên bình diện tự thuật, Têrêsa sẽ kể lại một giai đoạn dài cuối đời, khi bà sống mà không vội vã hướng tới Quang Lâm, nhưng hoàn toàn dấn thân vào phục vụ.
Trên bình diện giáo huấn, khi viết tác phẩm cuối cùng (Lâu Đài Nội Tâm), nhằm hệ thống hóa tiến trình trưởng thành đời sống Kitô hữu, bà sẽ đặt sự viên mãn của tiến trình này nơi sự kết hợp với Đức Kitô và trong phục vụ tha nhân. Hãy nghe chính lời bà – đây là những lời từ những chứng từ cuối cùng, phản ánh sự viên mãn của niềm hy vọng:
— Trong Lâu Đài Nội Tâm VII, Têrêsa dành trọn một chương để khắc họa chân dung người Kitô hữu trưởng thành, đang tiến gần tới sự viên mãn trong Đức Kitô. Tất nhiên, trong khung cảnh này, bà sẽ vẽ sơ đồ của các ước muốn (chương 3, các số 4 và 6). Bà viết:
“Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, là trước đây họ đã trải qua biết bao gian khổ và đau đớn vì mong được chết, để hưởng Chúa chúng ta. Còn bây giờ, ước muốn của họ lớn lao đến mức muốn phục vụ Ngài, để nhờ họ Ngài được ngợi khen, và nếu có thể, đem lại lợi ích cho một linh hồn nào đó; đến nỗi họ không những không muốn chết, mà còn muốn sống rất nhiều năm, chịu đựng những gian khổ lớn lao, miễn là Chúa được ngợi khen vì họ, dù chỉ trong một điều rất nhỏ. Và dù họ biết chắc rằng khi linh hồn lìa khỏi thân xác thì sẽ được hưởng Chúa, điều đó cũng chẳng quan trọng gì đối với họ, cũng chẳng khiến họ nghĩ tới vinh quang mà các thánh đang có; họ không muốn ngay lập tức ở trong đó: vinh quang của họ là nếu có thể giúp được chút gì cho Đấng Chịu Đóng Đinh, nhất là khi thấy Ngài bị xúc phạm quá nhiều, và quá ít người thực sự lo cho danh dự của Ngài, dứt bỏ mọi sự khác” (Lâu Đài Nội Tâm VII, 3, 6).
— Trong bản tự thuật cuối cùng (Bản Tường Trình 6.a, năm 1581, một năm trước khi qua đời), Têrêsa lại làm một bản tổng kết tình trạng hiện tại của mình. Trong đó, bà nói trước hết về khía cạnh Kitô học, Ba Ngôi, các nhân đức Tin Mừng…, nhưng một lần nữa, chủ đề các ước muốn và sức căng của niềm hy vọng trong chặng cuối đời lại xuất hiện. Đây là phần mở đầu và kết thúc của “bức ảnh chớp nhanh” về chính mình:
“Ôi, ước gì con có thể diễn tả thật rõ ràng cho Cha thấy được sự bình an và thanh thản mà linh hồn con đang cảm nghiệm. Bởi vì, việc sẽ được hưởng Chúa, linh hồn con đã có sự xác tín đến mức, dường như nó đã được ban cho quyền sở hữu, dù chưa được hưởng; như thể một người đã được ban cho một sản nghiệp lớn, có văn tự rất chắc chắn để được hưởng vào một thời điểm nhất định, và đã bắt đầu nhận hoa lợi; nhưng cho đến lúc ấy, thì chỉ mới được quyền sở hữu, với bảo đảm sẽ được hưởng. Và với tâm tình biết ơn còn lại, họ chẳng muốn được hưởng ngay, vì cảm thấy mình chưa xứng đáng, nhưng muốn phục vụ, dù có phải chịu rất nhiều đau khổ; và đôi khi, dường như cho đến tận cùng thế giới cũng vẫn là quá ít để phục vụ Đấng đã ban cho quyền sở hữu này. Vì thực sự, phần nào đó, họ không còn bị lệ thuộc vào những khốn khó của thế gian như trước; vì dù có trải qua nhiều hơn, thì cũng giống như chỉ là ở bên ngoài, còn linh hồn ở trong một tòa thành kiên cố… Tất cả đều quy hướng về việc tôn vinh Thiên Chúa và làm sao để chu toàn ý muốn Ngài, để Ngài được vinh hiển…Niềm gắn bó này với ý muốn của Ngài mạnh đến mức, họ chẳng muốn chết hay sống, trừ một thời gian ngắn khi khao khát được thấy Chúa… Điều còn lại là ước muốn sống, nếu Ngài muốn, để phục vụ Ngài nhiều hơn. Và nếu có thể, góp phần để ít nhất một linh hồn yêu mến Ngài và ngợi khen Ngài hơn nhờ lời chuyển cầu của con, thì dù chỉ trong thời gian ngắn, con cũng thấy điều đó quan trọng hơn là ở trong vinh quang” (Bản Tường Thuật 6.a, các số 1 và 9).
— Như một bản tổng hợp, trong chương cuối của Lâu Đài Nội Tâm, bà đã viết: “Các chị có biết thế nào là thực sự sống đời thiêng liêng không? Là trở nên nô lệ của Thiên Chúa, để Ngài – Đấng đã đóng dấu họ bằng ấn tín của mình, đó là thánh giá, vì họ đã trao tự do của mình cho Ngài – có thể bán họ như những nô lệ cho toàn thế giới, như chính Ngài đã làm; và đó không phải là một sự xúc phạm hay một ơn nhỏ… Vậy nên, hỡi các chị em, hãy cố gắng trở nên người nhỏ nhất trong tất cả, và là nô lệ của Ngài, để tìm cách làm vui lòng hoặc phục vụ các chị em” (Lâu Đài Nội Tâm VII, 4, 8).
Những chứng từ cuối cùng này soi sáng cho ý nghĩa sâu xa của những câu thơ mở đầu – bài thánh ca về các ước muốn – mà Têrêsa đã dùng để bắt đầu “lời chứng về niềm hy vọng” của mình. Đúng vậy, đó là những khát vọng mãnh liệt hướng tới những điều thiện hảo và một sự sống vượt lên trên cái phù du của thời gian hiện tại. Nhưng đồng thời, đó cũng là sự hiện diện, dấn thân và chìm sâu vào đời sống, vào công việc và phục vụ. Cho đến mức bà lại đưa ra một phiên bản rất riêng của lựa chọn của Phaolô, giữa Quang Lâm và phục vụ: Têrêsa sẽ thích sống thêm cả ngàn năm để phục vụ, dù phải chờ đợi vinh quang.
Cầu nguyện trong niềm hy vọng
Cầu nguyện là một biểu hiện của niềm hy vọng: interpretativa spei, theo Thánh Tôma Aquinô (Summa Theologiae, II-II, 17, 4).
Nơi Thánh Têrêsa, một chứng nhân đặc biệt của đời sống cầu nguyện Kitô giáo, niềm hy vọng và cầu nguyện luôn được triển khai song song. Thật đáng công để tiến đến gần vị Thánh và bắt gặp ngài trong lúc cầu nguyện. Chúng ta hãy chọn một trong những thời khắc căng thẳng cánh chung cao độ của ngài — phần kết của Lời Than Thở 17. Ở đây, lại xuất hiện điệp khúc của các bản văn Phaolô và sự nâng đỡ của các lời hứa Kinh Thánh, vốn là nền tảng của niềm hy vọng Kitô giáo:
“Xin đừng phạt con bằng việc ban cho con điều con muốn hay ước ao, nếu tình yêu của Chúa (ước chi luôn sống trong con) không muốn điều đó. Xin cho ‘cái tôi’ này chết đi, và xin Đấng Khác sống trong con — Đấng cao trọng hơn con và tốt lành hơn con — để con có thể phục vụ Ngài. Xin Ngài sống và ban sự sống cho con. Xin Ngài trị vì, và con trở nên tù nhân của Ngài, vì linh hồn con không muốn một sự tự do nào khác. Làm sao có thể tự do nếu xa cách Đấng Tối Cao? Có cảnh nô lệ nào lớn hơn và khốn khổ hơn việc linh hồn tách rời khỏi Đấng Tạo Hóa? Phúc thay cho những ai bị xiềng chặt bằng những sợi xích bền chắc của các ân huệ đến từ lòng thương xót của Thiên Chúa, khiến họ không thể và cũng không muốn tự giải thoát mình. Tình yêu mạnh mẽ như sự chết, và khốc liệt như âm phủ!
Phúc thay những ai được ghi tên trong Sách Sự Sống. Nhưng hỡi linh hồn ta, nếu ngươi thuộc về số đó, tại sao ngươi buồn phiền và xao động? Hãy cậy trông vào Thiên Chúa! Ngay bây giờ ta sẽ thú nhận với Ngài tội lỗi của ta và những ân huệ của Ngài, và từ cả hai, ta sẽ dệt nên một bài ca ngợi kèm với những tiếng thở dài không ngừng dâng lên Đấng Cứu Độ và Thiên Chúa của ta. Có thể một ngày kia sẽ đến, khi ta hát vinh quang Ngài mà không còn bị cắn rứt lương tâm, nơi mọi tiếng thở dài và nỗi sợ hãi sẽ chấm dứt. Nhưng trong khi chờ đợi, chính trong niềm hy vọng và thinh lặng mà ta tìm thấy sức mạnh. Con thà chết và sống trong việc kiếm tìm và trông đợi sự sống đời đời, hơn là sở hữu mọi loài thụ tạo và mọi của cải của chúng, vốn sẽ qua đi. Xin Chúa đừng bỏ rơi con, vì con trông cậy nơi Ngài, để hy vọng của con không bị hổ thẹn. Xin cho con luôn phụng sự Chúa, và xin hãy làm nơi con điều Chúa muốn.” (Lời Than Thở 17, 3 và 6).
Cũng chính là một lời cầu nguyện từ niềm hy vọng (interpretativa spei) lời mà Thánh Têrêsa đã thốt lên lần cuối cùng trước khi qua đời, vang vọng lại lời khẩn cầu cuối cùng của Sách Khải Huyền: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” Thánh nữ đã lập lại: “Giờ đã đến rồi, lạy Lang Quân của con, để chúng ta được gặp nhau. Giờ đã đến lúc lên đường.”
[1] Trích từ Tạp chí Monte Carmelo, số 2, tập 95, năm 1987.
[2] Bản văn này có lẽ được viết vào khoảng năm 1562, khi Têrêsa khoảng 47 tuổi, và đã có 8 năm kinh nghiệm nội tâm sâu sắc. Chúng tôi đã chép lại toàn bộ bản văn, để không làm mất đi sự phong phú của những sắc thái qua đó niềm hy vọng Kitô giáo được khắc họa rõ nét trong đó.
[3] Ta cũng hãy ghi lại một tâm sự thoáng qua mà Têrêsa đã thổ lộ trong Ký Sự Lập Các Đan Viện, chương 19, đoạn 5, khi kể lại biến cố đêm lễ Các Linh Hồn trong ngôi nhà lớn ở Salamanca: “Chuyện đó (cái chết của người bạn đồng hành), nếu thật vậy, thì với tôi dường như là một việc ghê gớm; và tôi bắt đầu nghĩ ngợi đôi chút về nó, thậm chí cảm thấy sợ hãi; vì những thi thể —dù tôi chưa từng thấy— vẫn làm yếu mềm trái tim tôi, dù tôi không ở một mình… Ma quỷ đã có khởi đầu khá tốt để khiến chúng tôi đánh mất tâm trí vì những chuyện trẻ con”.
[4] Trong ngôn ngữ của Thánh nữ, có một sự phân biệt rõ ràng giữa hai từ “miedo” (sợ hãi) và “temor” (kính sợ). Với từ thứ hai, ngài dành cho nó một nội dung sâu sắc mang tính Kinh Thánh. Xem, chẳng hạn, Lâu Đài Nội Tâm III, 1, 1 và chương 4.
[5] Hãy lưu ý đến những ám chỉ hoặc âm vang Kinh Thánh trong các bản văn này: Rm 7,24 và Tv 136,4.
[6] Tiếp theo đó là một ám chỉ khác đến bản văn và kinh nghiệm về Chúa Kitô của Thánh Phaolô: “…vì họ có chính Chúa ở với mình, và Đức Uy Linh của Người chính là Đấng hiện đang sống trong họ…” (số 8).
[7] Cả đoạn văn này cũng như những đoạn khác mà chúng tôi sẽ trích dẫn từ Lâu Đài Nội Tâm đều mang ý nghĩa tự thuật, mặc dù bề ngoài có vẻ ẩn danh. Đoạn hiện tại mở đầu bằng câu: “Tôi biết một người…” — đó là cách diễn đạt quen thuộc mà Thánh nữ thường dùng để kín đáo nói về chính mình.